Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (từ năm 2007 đến năm 2017)

2316
Đánh giá bài viết

Cổng Thông tin điện tử Công an tỉnh Quảng Bình xin giới thiệu tới độc giả dự thảo Báo cáo tổng kết công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (từ năm 2007 đến năm 2017).

 

Ảnh minh họa.

 

Bộ Công an đã chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành địa phương tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện công tác quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam trên các mặt công tác sau:

I. Tình hình liên quan đến công tác quản lý xuất nhập cảnh từ năm 2007 đến 2017

1. Ngày 07/11/2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, mở ra nhiều cơ hội để Việt Nam phát triển và tăng trưởng bền vững. Trong nước, Đảng và Chỉnh phủ chủ trưởng đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, chúng ta đã xây dựng được nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, mở rộng quan hệ thương mại với gần 200 nước, ký kết hơn 1000 điều ước quốc tế, là thành viên ASEAN, APEC, ASEM, AFTA… phát triển quan hệ đầu tư với hơn 80 nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ tốt với các tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB), tranh thủ viện trợ của trên 45 nước, đã ký Hiệp định khung về hợp tác với Liên minh châu Âu, Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.

Việc mở cửa, tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế, đã tạo điều kiện cho công dân Việt Nam xuất cảnh hợp pháp (thăm thân, du lịch, lao động, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập), giảm gánh nặng thất nghiệp ở trong nước. Xu hướng công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, công tác ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước (năm 2007 có 1,9 triệu lượt; năm 2008 có 2,6 triệu lượt; năm 2010 có 3,2 triệu lượt; năm 2013 có 6,1 triệu lượt; năm 2016 có 7,7 triệu lượt công dân Việt Nam xuất cảnh). Điều này đã tác động, ảnh hưởng đến công tác quản lý xuất nhập cảnh; đòi hỏi phải không ngừng cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam xuất cảnh; đồng thời, đặt ra nhiều yêu cầu đối với công tác kiểm soát xuất cảnh, vừa phải đảm bảo an ninh quốc gia, vừa phục vụ yêu cầu chính trị hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước.

2. Lợi dụng sự thông thoáng trong việc giải quyết thủ tục xuất nhập cảnh, thời gian qua, một số đối tượng đã hợp thức hóa hồ sơ, sử dụng giấy tờ giả để làm thủ cấp hộ chiếu, đáng chú ý đã có những đường dây làm giả giấy tờ. Hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như: sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ; sử dụng hộ khẩu giả để cấp giấy chứng minh nhân dân với thông tin nhân thân khác; thay ảnh của mình vào giấy chứng minh nhân dân của người khác sau đó làm thủ tục cấp hộ chiếu. Đối tượng làm giả giấy tờ để được cấp hộ chiếu tập trung chủ yếu vào những trường hợp đã có thời gian xuất cảnh ra nước ngoài lao động, nhưng vi phạm pháp luật nước sở tại hoặc cư trú bất hợp pháp, bị phía nước ngoài phát hiện, trục xuất về nước, nay muốn trở lại làm việc nhưng biết không thể nhập cảnh bằng tên thật nên đã thay đổi chi tiết nhân thân hoặc giả mạo hồ sơ để làm thủ tục cấp CMND với chi tiết nhân thân khác sau đó sử dụng làm thủ tục cấp hộ chiếu, như lập khống hộ khẩu, làm giả chứng minh nhân dân, sử dụng giấy tờ của anh em, họ hàng để xin cấp hộ chiếu, nhiều trường hợp sử dụng hộ chiếu người khác.

Các đường dây, tổ chức đưa người xuất nhập cảnh, di cư trái phép có sự móc nối của các đối tượng trong và ngoài nước thời gian qua diễn biến rất phức tạp, với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm trốn tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Qua đấu tranh, Bộ Công an đã phát hiện một số phương thức, thủ đoạn phổ biến sau:

– Các đối tượng xuất cảnh hợp pháp sang một số nước như Nga, Mexico, Cuba, Lào, Thái Lan… theo diện du lịch, thương mại, thăm thân sau đó đi đường bộ, đường biển nhập cảnh trái phép vào châu Âu, Mỹ, Đài Loan.

– Xuất cảnh hợp pháp ra nước ngoài theo diện du lịch sau đó trốn ở lại cư trú, lao động bất hợp pháp.

– Xuất cảnh hợp pháp sang các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Malaysia), sau đó sử dụng hộ chiếu nước ngoài giả, hộ chiếu nước ngoài mang tên người khác để tìm cách đi châu Âu.

– Xuất cảnh trái phép qua đường tiểu mạch sang Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao bằng đường biển; xuất cảnh trái phép từ Việt Nam sang Úc bằng đường biển.

– Sử dụng hộ chiếu có thị thực Schengen (Đức, Tây Ban Nha, Pháp) giả, thẻ cư trú Hy Lạp giả để xuất cảnh từ Việt Nam sang châu Âu.

– Hợp thức hồ sơ là nhân viên công ty TNHH để xin thị thực nước ngoài diện thương mại, xin cấp thẻ ABTC, sau khi nhập cảnh thì trốn ở lại, lao động bất hợp pháp.

Tình trạng người Việt Nam ra nước ngoài học tập, lao động trốn ở lại, có các hoạt động vi phạm pháp luật của nước sở tại diễn ra rất phức tạp, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên. Thời gian vừa qua, các nước siết chặt chính sách nhập cư, dẫn đến tình trạng công dân Việt Nam bị các nước trục xuất ngày càng nhiều. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ Việt Nam đã ký kết 19 Hiệp định nhận trở lại công dân. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các Hiệp định này còn hạn chế, một số nước không tuân thủ theo tinh thần của hiệp định. Trong nước, việc phân công, phối hợp giữa các bộ, ngành chưa có sự tập trung, thống nhất, nhất là giữa Bộ Công an và Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động Thương binh và xã hội.

3. Việt Nam đang triển khai hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh… để phát triển, do đó, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật rất cấp bách. Chính phủ đã tham mưu cho Quốc hội ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý phục vụ hội nhập, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nhiều văn bản có nội dung chồng chéo, thiếu thống nhất, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính để phát triển kinh tế – xã hội, vẫn có nơi, có lúc gây khó khăn cho tổ chức, cá nhân; việc phân công chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh chưa tập trung về một đầu mối. Bộ Công an là đơn vị chủ trì giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác quản lý xuất nhập cảnh, nhưng việc kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu đường bộ, đường biển đều do Bộ Quốc phòng quản lý; việc cấp, đổi, bổ sung các loại giấy tờ có giá trị xuất nhập cảnh giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Công an còn bất cập, gây khó khăn cho công tác kiểm soát xuất nhập cảnh, việc trao đổi thông tin chưa thông suốt; công tác quản lý hộ chiếu công vụ còn thiếu chặt chẽ, việc thu hồi, quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ khi hết nhiệm vụ chưa thực hiện được triệt để, vẫn còn tình trạng không nộp lại hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ hoặc sử dụng hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ đi nước ngoài vì việc riêng.

II. Kết quả triển khai công tác quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam

1. Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

1.1. Tham mưu cho Chính phủ ban hành các Nghị định, Quyết định

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam, phục vụ hội nhập kinh tế – quốc tế, Bộ Công an đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tham mưu cho Chính phủ ban hành các Nghị định, Quyết định, cụ thể:

– Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

– Nghị định 65/2012/NĐ-CP ngày 6/9/2012 sửa đổi Nghị định 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (đã hết hiệu lực).

– Nghị định 94/2015/NĐ-CP ngày 16/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

– Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 28/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC.

– Quyết định 54/2015/QĐ-TTg ngày 29/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 28/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC.

– Quyết định 135/2007/QĐ-TTg ngày 17/8/2007 ban hành quy chế về miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

– Quyết định số 58/QĐ-BCA ngày 24/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng và quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ.

– Chỉ thị số 29/2007/CT-TTg ngày 11/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện cải cách hành chính trong công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của cán bộ, công chức, công dân.

1.2. Ban hành theo thẩm quyền các thông tư

– Thông tư số 27/2007/TT-BCA ngày 29/11/2007 của Bộ Công an hướng dẫn việc cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước theo Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

– Thông tư số 07/2013/TT-BCA ngày 30/01/2013 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 27/2007/TT-BCA ngày 29/11/2007 của Bộ Công an hướng dẫn việc cấp, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu phổ thông ở trong nước và Thông tư số 10/2006/TT-BCA ngày 18/9/2006 của Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC

– Thông tư số 10/2006/TT-BCA ngày 18/9/2006 hướng dẫn thực hiện Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC theo quyết định số 45/2006/QĐ-TTg ngày 28/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ.

– Thông tư số 41/2011/TT-BCA ngày 14/6/2011 hướng dẫn cấp giấy thông hành biên giới cho công dân Việt Nam sang Lào và giấy phép đến các tỉnh, thành phố của Việt Nam cho công dân Lào.

– Thông tư số 42/2011/TT-BCA ngày 29/6/2011 hướng dẫn việc cấp giấy thông hành biên giới Việt Nam-Campuchia cho cán bộ, viên chức, công nhân Việt Nam sang Campuchia.

– Thông tư số 43/2011/TT-BCA ngày 29/6/2011 hướng dẫn việc cấp giấy thông hành nhập xuất cảnh cho công dân Việt Nam sang các tỉnh, thành phố biên giới Trung Quốc tiếp giáp Việt Nam.

– Thông tư số 44/TT-BCA ngày 13/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về thực hiện dân chủ trong giải quyết thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh.

– Thông tư số 67/TT-BCA ngày 11/12/2013 của Bộ Công an quy định việc cấp giấy thông hành xuất cảnh, nhập cảnh vùng biên giới cho công dân VN quan lại biên giới Việt Nam – Trung Quốc.

– Thông tư 21/2011/TT-BCA ngày 25/4/2011 của Bộ Công an quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các quyết định chưa cho nhập cảnh, chưa được xuất cảnh, tạm hoãn xuất cảnh.

– Thông tư số 02/2013/TT-BCA ngày 05/01/2013 về việc ban hành, hướng dẫn sử dụng và quản lý các loại mẫu giấy tờ liên quan đến công tác quản lý xuất nhập cảnh.

– Thông tư số 29/2016/TT-BCA ngày 06/7/2016 hướng dẫn việc cấp, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu phổ thông ở trong nước cho công dân Việt Nam.

– Thông tư số 28/2016/TT-BCA ngày 05/7/2016 của Bộ Công an hướng dẫn thực hiện Quy chế về việc cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC.

1.3. Phối hợp với các bộ, ban, ngành ban hành các thông tư

– Thông tư số 66/2009/TT-BTC ngày 30/3/2009 của Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp hộ chiếu, thị thực, giấy tờ về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam.

– Thông tư 100/2011/TT-BTC ngày 07/7/2011 của Bộ Tài chính quy định việc quản lý, sử dụng số thu lệ phí xuất nhập cảnh phải nộp Ngân sách nhà nước để thực hiện Đề án sản xuất và phát hành hộ chiếu điện tử Việt Nam.

– Thông tư số 190/2012/TT-BTC ngày 09/11/2012 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 66/2009/TT-BTC ngày 30/3/2009 của Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp hộ chiếu, thị thực, giấy tờ về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam.

– Thông tư 157/2015/TT-BTC ngày 8/10/2015 quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng lệ phí cấp hộ chiếu, thị thực, giấy tờ về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú tại Việt Nam.

– Thông tư số 02/2013/TT-BNG ngày 25/6/2013 hướng dẫn việc cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ và cấp công hàm đề nghị cấp thị thực.

– Thông tư 02/2013/TT-BNG ngày 25/6/2013 của Bộ Ngoại giao hướng dẫn việc cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ và cấp công hàm đề nghị cấp thị thực.

– Thông tư số 03/2016/TT-BNG ngày 30/6/2016 của Bộ Ngoại giao hướng dẫn việc cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ và cấp công hàm đề nghị cấp thị thực (thay thế Thông tư 02/2013/TT-BNG ngày 25/6/2013).

– Quyết định số 58/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 về việc sử dụng và quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ.

– Thông tư 07/2012/TT-BGTVT ngày 21/3/2012 quy định về chức danh, nhiệm vụ theo chức danh của thuyền viên và đăng ký thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam

– Thông tư số 05/2009/TTLT-BCA-BNG ngày 12/5/2009 hướng dẫn thủ tục giải quyết cho công Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký thường trú tại Việt Nam.

– Thống tư số 04/2016/TTLT-BCA-BNG ngày 30/6/2016 bãi bỏ Thông tư số 05/2009/TTLT-BCA-BNG ngày 12/5/2009 hướng dẫn thủ tục giải quyết cho công Việt Nam định cư ở nước ngoài đăng ký thường trú tại Việt Nam.

– Thông tư liên tịch số 08/2009/TTLT/BCA-BNG ngày 06/10/2009 hướng dẫn việc cấp hộ chiếu phổ thông và giấy thông hành cho công dân Việt Nam ở nước ngoài.

– Thông tư liên tịch số 08/2013/TTLT/BCA-BNG ngày 20/8/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2009/TTLT/BCA-BNG để cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện.

Các văn bản nêu trên đã thể hiện tinh thần đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, tạo thông thoáng trong thủ tục, thuận lợi cho công dân chủ động trong việc làm các thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh.

2. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam

Bộ Công an đã chủ động phối hợp, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và coi đây là biện pháp rất quan trọng đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cán bộ thực hiện cũng như mọi người dân hiểu và thực hiện đúng quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh, cụ thể: Đã tổ chức 5 Hội thảo, Hội nghị tuyên truyền, phổ biến Nghị định 136/2007/NĐ-CP; xây dựng, triển khai 10 kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

– Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn là biện pháp nhằm đảm bảo minh bạch, công khai hóa các quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh, ngăn chặn tình trạng lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để trục lợi làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước. Bộ Công an đã ban hành văn bản quy định về quy chế dân chủ trong lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh; đồng thời chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ ở Trung ương và địa phương làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh bằng nhiều hình thức.

– Cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh Công an các đơn vị, địa phương niêm yết công khai các quy định pháp luật về xuất nhập cảnh, các văn bản hướng dẫn, quy định về hồ sơ và các loại biểu mẫu liên quan đến việc giải quyết xuất cảnh, nhập cảnh tại trụ sở tiếp dân; đăng tải các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh công khai trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an, Cục quản lý xuất nhập cảnh và các phương tiện thông tin đại chúng khác.

– Thông báo công khai số điện thoại đường dây nóng của cơ quan để trả lời về thủ tục và giải đáp những thắc mắc về việc xuất cảnh, nhập cảnh của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân.

– Phối hợp với các báo, đài trong cả nước để tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân. Thông qua báo, đài truyền hình, đài phát thanh để trả lời, giải đáp, giải thích những quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.

3. Công tác kiểm tra, hướng dẫn các quy định của pháp luật về xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam

3.1. Tổ chức tập huấn các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam

Nhằm thực hiện thống nhất các quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức tập huấn cho cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Nội dung tập huấn tập trung giới thiệu những quy định mới của văn bản quy pháp luật, nhấn mạnh những vấn đề cần chú ý trong quy trình giải quyết, đồng thời giải đáp những vấn đề chưa rõ nhằm thống nhất về nhận thức để đảm bảo khi giải quyết đúng quy định của pháp luật.

Đối với Bộ Công an xác định đây là biện pháp hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện các quy định của Chính phủ vì đối tượng phục vụ là đông đảo nhân dân, phạm vi thực hiện trên toàn quốc và lực lượng thực hiện giải quyết xuất cảnh, nhập cảnh đông ở cả Trung ương và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Vì vậy trong 10 năm qua, mỗi khi văn bản mới được ban hành hoặc thay đổi về biện pháp giải quyết, Bộ Công an đều tổ chức tập huấn cho lực lượng quản lý xuất nhập cảnh ở Bộ và các địa phương.

3.2. Tổ chức công tác kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam

Nhằm đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam tại các đơn vị ở Bộ và địa phương, hàng năm Bộ Công an đều xây dựng kế hoạch tổ chức các đoàn đi kiểm tra, hướng dẫn. Đây là nội dung quan trọng và cần thiết nhằm kịp thời phát hiện những sai sót để khắc phục, đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Đến nay, Bộ Công an đã tổ chức hàng trăm đoàn công tác đi kiểm tra. Qua công tác kiểm tra, hướng dẫn đã phát hiện những sơ hở, thiếu sót để kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền có biện pháp bổ sung. Việc kiểm tra, hướng dẫn được tập trung vào các thành phố lớn, địa bàn có đông người dân làm thủ tục xuất cảnh: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu… hoặc các địa phương còn khó khăn về cán bộ làm công tác xuất nhập cảnh ở các tỉnh biên giới.

4. Công tác cải cách thủ tục hành chính

Bộ Công an đã báo cáo Chính phủ, Quốc hội cải tiến các quy trình, biện pháp công tác trong chương trình cải cách hành chính, tập trung thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh giai đoạn 2007 – 2010 (đã hoàn thành giai đoạn 1 của Đề án, đang triển khai giai đoạn 2). Các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Công an xây dựng, ban hành đã đáp ứng cơ bản các yêu cầu về cải cách hành chính; đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản; đảm bảo công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đến nay, trong 40 thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực này, đã đề xuất bỏ 15 thủ tục hành chính, ghép 21 thủ tục thành 09 thủ tục, đảm bảo tất cả các thủ tục này đều được thực hiện theo cơ chế hành chính 01 cửa quốc gia. Kết thúc giai đoạn rà soát các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh còn lại 19 thủ tục và 22 mẫu đơn, tờ khai thủ tục hành chính.

Bộ Công an đã chủ động tham mưu cho Chính phủ ban hành sửa đổi, bổ sung Nghị định 136/2007/NĐ-CP (Nghị định 65, Nghị định 94), 07 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực quản lý công dân Việt Nam xuất cảnh, nhập cảnh, hồi hương; ban hành 19 Thông tư; phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng xây dựng, ban hành 17 Thông tư liên tịch; phối hợp hướng dẫn UBND các tỉnh ban hành 63 quy định… các văn bản trên đã tạo ra được “bước ngoặt” lớn về cải cách hành chính trên lĩnh vực xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam. Trong đó, đẩy mạnh thực hiện “03 giảm” (giảm thời gian, giảm thủ tục, giảm chi phí) cho người dân đến làm thủ tục hành chính, cụ thể: Bộ Công an đã đề xuất bỏ quy định về tiêu chuẩn cấp hộ chiếu cho công dân, theo đó hộ chiếu phổ thông cấp cho mọi công dân, trừ đối tượng chưa được xuất cảnh; bỏ các giấy tờ kèm theo thủ tục cấp hộ chiếu, bỏ cấp thị thực cửa khẩu xuất nhập cảnh, bỏ mục đích xuất cảnh, nước đến, nâng thời hạn giá trị hộ chiếu lên 10 năm, đổi mới quy trình, rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu từ 30 ngày xuống còn 5 ngày làm việc. Đến nay người dân có yêu cầu cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh chỉ cần nộp tờ khai đề nghị cấp hộ chiếu, 02 ảnh cỡ 4cmx6cm và xuất trình giấy chứng minh nhân dân (giảm 02 ảnh, không yêu cầu hộ khẩu, rút ngắn được 25 ngày), bỏ yêu cầu thư mời, bỏ yêu cầu giấy cho phép nhập cảnh của phía nước ngoài, bỏ thủ tục xác nhận của công an phường, xã đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên; mở rộng các hình thức nộp và nhận kết quả như qua bưu điện, qua mạng Internet. Việc đơn giản hóa thủ tục trong việc cấp hộ chiếu, giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh được đông đảo nhân dân đồng tình, được các cơ quan, tổ chức đánh giá cao.

Với sự thông thông thoáng, thuận tiện trên, đã góp phần tạo điều kiện cho người dân ra nước ngoài lao động, học tập, công tác. Hiện nay, theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Việt Nam có trên 500.000 lao động và chuyên gia làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại. Nguồn ngoại tệ thu nhập từ hoạt động xuất khẩu lao động đã góp phần nâng cao cuộc sống của người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nhiều địa phương trong nước.

5. Công tác cấp, quản lý hộ chiếu, giấy tờ có giá trị xuất nhập cảnh cho công dân Việt Nam

Trên cơ sở dự báo sát nhu cầu cấp hộ chiếu, giấy thông hành của người dân trong giai đoạn đất nước mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, ra nước ngoài học tập, lao động, công tác, những năm qua, Bộ Công an đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào phục vụ nhân dân. Đảm bảo công tác nhận hồ sơ xin cấp hộ chiếu, các giấy tờ khác có giá trị xuất nhập cảnh của công dân nhanh chóng, kịp thời; trả kết quả đúng thời gian; giảm các thủ tục khác không cần thiết để phục vụ nhân dân, cụ thể:

– Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực xuất nhập cảnh, Bộ Công an đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin máy tính điện tử quản lý xuất nhập cảnh gồm nhiều chương trình liên kết chặt chẽ với nhau, cụ thể: Chương trình kiểm tra, kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu; chương trình quản lý xuất nhập cảnh tại Công an địa phương; kết nối với Trung tâm thông tin giữa các đơn vị nghiệp vụ trong ngành Công an; triển khai xây dựng và liên kết các mạng cục bộ (LAN), hình thành mạng rộng (WAN) quản lý xuất nhập cảnh trên toàn quốc. Triển khai việc truyền dữ liệu công dân đề nghị cấp hộ chiếu qua mạng máy tính, giảm thời gian vận chuyển hồ sơ, thực hiện kết nối cáp quang với Cục Cửa khẩu, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao, phục vụ công tác quản lý xuất nhập cảnh.

– Đã nghiên cứu, triển khai nối mạng máy tính giữa Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Công an) với Công an 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để truyền các dữ liệu của những người đề nghị cấp hộ chiếu phục vụ cấp hộ chiếu được nhanh chóng (trước đây Công an các tỉnh, thành phố phải chuyển hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu quan đường giao liên nên mất nhiều thời gian). Đầu tư, xây dựng trung tâm chỉ huy, xây dựng cơ sở dữ liệu về xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam.

– Cải tiến, nâng cấp công nghệ in ấn và phát hành hộ chiếu Việt Nam theo tiêu chuẩn ICAO, sử dụng công nghệ in phun ảnh, nâng cao chất lượng hộ chiếu, chống làm giả (thay ảnh). Đang nghiên cứu, sản xuất hộ chiếu điển tử (sinh trắc học) có độ bảo mật cao, tránh làm giả và đang triển khai hệ thống thông tin hành khách trước khi nhập cảnh Việt Nam qua đường hàng không (API). Sau 10 năm thực hiện, Bộ Công an đã cấp gần 12 triệu cuốn hộ chiếu phổ thông; 2.500.000 giấy thông hành; phối hợp với Bộ Ngoại giao cấp gần 700.000 hộ chiếu phổ thông. Bộ Ngoại giao đã cấp gần 130.000 cuốn hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ; gần 150.000 giấy thông hành.

– Bảng thống kê số liệu cấp hộ chiếu ngoại giao và hộ chiếu công vụ, phân tích từng năm (Phụ lục 1).

– Bảng thống kê số liệu cấp hộ chiếu thuyền viên, phân tích theo từng năm (Phụ lục 2).

– Bảng thống kê số liệu cấp giấy thông hành nhập xuất cảnh, giấy thông hành biên giới, phân tích theo nơi cấp (Phụ lục 3).

6. Công tác kiểm tra, kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh của công dân tại các cửa khẩu

Việc giải quyết thủ tục xuất, nhập cảnh tại các cửa khẩu, sân bay tiếp tục được cải tiến theo hướng thuận lợi, thông thoáng hơn và có sự liên thông giữa các cơ quan chức năng đó là Công an cửa khẩu, Hải quan, Hàng không. Đặc biệt, từ 15/9/2010, Bộ Công an đã trang bị máy móc đọc hộ chiếu và nối mạng máy tính, rút ngắn được thời gian làm thủ tục cho công dân xuất, nhập cảnh, góp phần thực hiện tốt chủ trương công tác Công an đảm bảo an ninh trật tự phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Tập trung trang bị phương tiện khoa học kỹ thuật tiên tiến phục vụ cho việc giải quyết xuất cảnh, nhập cảnh cho công dân Việt Nam. Từ năm 2007 đến nay, Bộ Công an đã làm tốt công tác kiểm soát hoạt động xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu hàng không, giải quyết cho hơn 19 triệu lượt công dân xuất cảnh, hơn 18 triệu lượt công dân nhập cảnh, không để xảy ra tình trạng ùn ứ tại các bục kiểm soát; không để người dân bị chậm, trễ các chuyến bay do làm thủ tục.

– Bộ Công an đã chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải để nối mạng máy tính giữa Bộ Công an (Cục Quản lý xuất nhập cảnh) với Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) và Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng) phục vụ cho việc tra cứu thông tin, công tác kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu và thống kê nhà nước về xuất nhập cảnh, vừa rút ngắn thời gian làm thủ tục tại các cửa khẩu, thời gian kiểm soát một công dân xuất, nhập cảnh xuống từ 5 phút/1 lượt xuống còn 30 giây/1 lượt. Đồng thời nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, ngăn chặn các hoạt động giả mạo giấy tờ xuất nhập cảnh trái phép. Cụ thể, Bộ Công an đã phát hiện xử lý 2671 vụ với 3237 đối tượng vi phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, phạt  tiền là 7.3 tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra, xử lý 161 vụ/557 người (Trong đó, có 512 vụ/525 đối tượng giả mạo hồ sơ để xin cấp hộ chiếu; 230 vụ/244 đối tượng sử dụng hộ chiếu giả, thị thực giả; 140/146 đối tượng sử dụng hộ chiếu người khác; 68 vụ/141 đối tượng khai không đúng sự thật để cấp hộ chiếu; 383 vụ/469 đối tượng vi phạm khác;…).

– Công tác kiểm tra, kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa sân bay quốc tế đã có nhiều chuyển biến, đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Lực lượng kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu sân bay quốc tế được trang bị hệ thống máy móc hiện đại, phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát hành khách xuất nhập cảnh (hệ thống máy tính kết nối với trung tâm, phòng kỹ thuật phát hiện hộ chiếu, giấy tờ giả, máy đọc hộ chiếu,…); kịp thời nhập máy, truyền dữ liệu gần 5.000 trường hợp bị dừng xuất cảnh vì nợ thuế đến các cửa khẩu, hơn 1.000 trường hợp bị dừng xuất cảnh do chưa thi hành bản án dân sự. Qua đó góp phần ngăn chặn các đối tướng xuất cảnh để trốn tránh các nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

– Đối với cửa khẩu đường bộ, đường biển do Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đối Biên phòng) kiểm soát. Đến nay, Chính phủ đã đàm phá và ký kết các văn kiện pháp lý về công tác quản lý biên giới, cửa khẩu (Hiệp định về quy chế quản lý biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu Việt Nam – Trung Quốc, Nghị định thưu về phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc; Thỏa thuận về việc tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên giới Việt Nam – Lào; Thỏa thuận về giải quyết vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới Việt Nam – Lào). Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng) đã chủ động cải cách thủ tục hành chính, đầu tư trang thiết bị phương tiện, kỹ thuật phục vụ công tác kiểm soát, kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, tạo điều kiện thông thoáng cho người, phương tiện qua lại biên giới, trao đổi hàng hóa được thuận lợi. Kết quả đã giải quyết cho 20,1 triệt lượt nhập cảnh, 20,3 triệu lượt xuất cảnh qua cửa khẩu đường bộ; 1,8 triệu thuyền viên nhập cảnh, hơn 2 triệu thuyền viên xuất cảnh. Qua công tác kiểm soát, phát hiện, xử lý 7.205 vụ/8.139 đối tượng vi phạm, xử phạt hành chính hơn 3 tỷ đồng; trong đó, phát hiện, ngăn chặn 683 vụ/965 đối tượng xuất cảnh trái phép; 1.183 đối tượng sử dụng hộ chiếu không hợp lệ để xuất cảnh, 761 trường hợp thuộc diện chưa cho xuất cảnh; phối hợp, tiếp nhận 2.021 công dân Việt Nam bị phía nước ngoài đẩy đuổi.

7. Công tác phối hợp quản lý, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài

Việc mở cửa, tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế, đã tạo điều kiện cho công dân Việt Nam xuất cảnh hợp pháp (thăm thân, du lịch, lao động, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập), giảm gánh nặng thất nghiệp ở trong nước… Tuy nhiên, việc này cũng nảy sinh vấn đề phức tạp: Khi hết hạn cư trú công dân không trở về nước, lao động bỏ hợp đồng trốn ra ngoài cư trú bất hợp pháp…  Để giải quyết tình trạng trên cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam sinh sống làm ăn ổn định ở nước ngoài, ngăn chặn xuất cảnh, cư trú trái phép, tránh phía nước ngoài đưa ồ ạt số lượng lớn công dân về nước, Bộ Công an đã phối hợp với ngành ngoại giao tham mưu cho Chính phủ ký kết 15 Hiệp định nhận trở lại công dân với các nước, trong đó đảm bảo được phương án cao như: Không nhận người không phải là công dân Việt Nam, không hồi tố, không nhận trở lại công dân trước ngày ký thỏa thuận hoặc ngày mốc, đảm bảo trật tự, an toàn, tôn trọng nhân phẩm, lợi ích hợp pháp. Qua thực hiện, ta đã xác minh 113.500 trường hợp công dân Việt Nam không được nước ngoài cho cư trú, trong đó đã đồng ý và thực hiện tiếp nhận trở lại 54.154 trường hợp, không đồng ý nhận trở lại 25.377 trường hợp, còn lại 11.506 trường hợp đang xác minh, làm rõ.

Bộ Công an đã chủ động hợp tác với các nước trong giải quyết các vấn đề xuất nhập cảnh có tính chất toàn cầu như di cư tự do, bất hợp pháp, phối hợp trong trao đổi thông tin, nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất nhập cảnh trong khu vực, thế giới, như định kỳ tham dự các hội nghị thường niên Những người đứng đầu cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và lãnh sự ASEAN (DGICM), Nhóm đi lại của doanh nhân APEC (BMG), quản lý dòng di cư Á – Âu (ASEM); tranh thủ sự giúp đỡ về đào tạo ngoại ngữ và trang bị phương tiện, nâng cao năng lực quản lý xuất nhập cảnh; hợp tác trao đổi thông tin xuất nhập cảnh, chống đưa người di cư trái phép; tăng cường quan hệ hợp tác song phương với cơ quan quản lý xuất cảnh các nước; tranh thủ sự hợp tác với các nước để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ trong kiểm tra, kiểm soát phát hiện hộ chiếu, giấy tờ giả cho cán bộ quản lý xuất nhập cảnh, đồng thời trang bị phương tiện khoa học kỹ thuật tiên tiến (phòng kỹ thuật) cho cửa khẩu sân bay quốc tế.

Tích cực phối hợp với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh các nước thực hiện việc trao đổi thông tin xuất nhập cảnh (ký MOU với Úc, Anh, Đài Loan). Đồng thời, tham gia tích cực các hoạt động quản lý dòng di cư Á – Âu (ASEM); tham gia chương trình ABTC, tạo thuận lợi cho doanh nhân khối APEC đi lại thực hiện đầu tư, thương mại, dịch vụ; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh với các nước trên thế giới và khu vực.

III. Nhận xét, đánh giá

1. Ưu điểm

– Công tác quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam tạo môi trường thông thoáng phục vụ hội nhập quốc tế, giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế; thu hút được nhiều kiều hối, chất xám của Việt kiều để xây dựng và phát triển kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, thực hiện xuất nhập khẩu, đầu tư, kinh doanh tăng nguồn dự trữ ngoại hối cho đất nước; đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài để tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp trong nước và tăng thu ngoại tệ; tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên đi nước ngoài học tập tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm của các nước, phục vụ xây dựng và phát triển đất nước.

– Về đối ngoại: Đã góp phần phục vụ đường lối đối ngoại, tăng cường hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều đoàn cán bộ các cấp ra nước ngoài dự hội nghị, hội thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng kinh tế, thương mại.

– Về an ninh chính trị: việc quy định công khai, rõ ràng về điều kiện xuất cảnh, điều kiện cấp hộ chiếu, người thuộc diện chưa được xuất cảnh, chưa được nhập cảnh, các nguyên tắc đàm phán nhận trở lại công dân Việt Nam không được phía nước ngoài cho cư trú đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam sinh sống làm ăn ổn định ở nước ngoài, ngăn chặn xuất cảnh, cư trú trái phép, tránh phía nước ngoài đưa ồ ạt số lượng lớn công dân về nước.

2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác quản lý xuất cảnh, nhập cảnh thời gian qua cũng nổi lên nhiều bất cập, tồn tại cần phải được khắc phục trong thời gian tới.

2.1. Về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam còn nhiều dài trải, chưa tập trung, thống nhất

– Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, tính ổn định chưa cao, thường xuyên phải bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế song chưa đáp ứng được yều cầu thực tiễn, nhất là yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu hội nhập quốc tế. Qua rà soát, có 11 luật, bộ luật, 09 nghị định và 18 thông tư và hàng chục quy định của UNND các tỉnh, thành phố trực tiếp hoặc có điều khoản liên quan đến công tác quản lý xuất nhập cảnh của công dân.

– Hệ thống văn bản hướng dẫn còn tản mạn, thường xuyên sửa đổi, bổ sung, gây khó khăn cho công dân trong việc theo dõi, nắm bắt để thực hiện. Điều này dẫn đến nhiều trường hợp khiếu nại, tố cáo do không hiểu được quy định mới trong thủ tục hành chính về xuất nhập cảnh.

– Hiến pháp 2013 ra đời khẳng định việc hạn chế quyền đi lại của công dân phải được quy định trong luật. Tuy nhiên, đến nay hệ thống văn bản pháp luật về quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam mới dừng lại ở Nghị định và các Thông tư hướng dẫn, thiếu tính ổn định, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung. Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước chưa được luật hóa.

– Một số quy định trong Nghị định 136 và Nghị định 94 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 136 chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong tình hình mới.

+ Đa số hộ chiếu do cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cấp không dùng máy để đọc được, phải đăng ký kiểm soát thủ công, gây chậm trễ trong công tác kiểm soát xuất nhập cảnh; chưa thống nhất được quy cách đóng dấu kiểm chứng xuất nhập cảnh cho các loại hình cửa khẩu gây khó khăn cho công tác quản lý hành trình của khách.

+ Nghị định 94 quy định mở rộng đối tượng được cấp hộ chiếu công vụ cho “công chức luân chuyển giữ các chức vụ chủ chốt tại các Hội mà vẫn là công chức”. Tuy nhiên, quy định này gây khó khăn do Luật cán bộ công chức và những văn bản hướng dẫn thực hiện vẫn chưa quy định rõ chức danh công chức tại các tổ chức nhân dân cho Đảng, Đoàn, Hội. Điều này gây thắc mắc cho các cơ quan, tổ chức liên quan.

+ Việc cấp hộ chiếu phổ thông tuy tạo thuận lợi tối đa cho công dân, chỉ căn cứ vào Chứng minh nhân dân. Tuy nhiên, việc này đã phát sinh nhiều vấn đề, nhất là trong điều kiện chất lượng CMND kém, dễ bị làm giả, yếu tố bảo mật chưa cao; dữ liệu về Chứng minh nhân dân không đầy đủ, tình trạng trùng số CMND diễn ra khá phổ biến, gây khó khăn cho công tác cấp hộ chiếu. Mặt khác, công tác quản lý, thu hồi CMND còn chưa chặt chẽ, nhiều trường hợp đã xin thôi quốc tịch Việt Nam song vẫn không bị thu hồi CMND, chưa có sự trao đổi kịp thời giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an.

+ Hộ chiếu là tài sản quốc gia, có giá trị sử dụng đến 10 năm. Tuy nhiên, mức thu lệ phí thấp nên chất lượng hộ chiếu không đảm bảo, dễ bị ẩm mốc, hư hỏng; việc cấp, đổi hộ chiếu được thuận tiện nên ý thức bảo quản hộ chiếu của người dân chưa cao.

+ Việc cấp hộ chiếu cho công dân Việt Nam ở nước ngoài gặp nhiều vướng mắc, trình tự và thủ tục cấp khá phức tạp, kéo dài; cách thức nộp hồ sơ cấp đổi, cấp lại trực tiếp là chưa tạo thuận lợi cho công dân ở nước ngoài; quá trình xác minh mất nhiều thời gian, không đảm bảo thời gian tính. Trong khi đó, giấy thông hành chỉ có giá trị cấp cho công dân về nước, không có giá trị đi nước thứ ba.

+ Việc bổ sung trẻ em vào hộ chiếu sau khi đã cấp cho cha mẹ nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, nhất là việc điều chỉnh thời hạn của hộ chiếu. Nghị định 136/2007/NĐ-CP không quy định rõ, nên trên thực tế áp dung không thống nhất, dẫn đến có trường hợp không điều chỉnh thời gian, nhưng lại có nhiều trường hợp vượt thời gian so với quy định.

+ Thời hạn hộ chiếu của trẻ em có giá trị sử dụng đến 05 năm là chưa phù hợp. Do đặc điểm sinh học, trẻ em lớn lên thay đổi nhiều về hình dáng khuôn mặt, gây khó khăn cho công tác kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu. 

+ Chính phủ đã giao cho Bộ Công an nghiên cứu, áp dụng cấp hộ chiếu điện tử. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý để việc cấp hộ chiếu điện tử chưa được quy định trong luật.

+ Tại điều 1 của Nghị định 94/NĐ-CP ngày 16/10/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định về hộ chiếu không rõ nghĩa: “Hộ chiếu phổ thông còn hạn thì được cấp lại, khi hết hạn thì làm thủ tục cấp mới”. Việc quy định như trên dẫn đến cơ quan áp dụng sẽ hiểu là việc “cấp lại” sẽ khác với “cấp mới” hộ chiếu. Trên thực tế, phía Cơ quan đại diện Ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài cho rằng, “cấp lại” thực chất là gia hạn. Điều này dẫn đến mâu thuẫn với quy định, hộ chiếu phổ thông không được gia hạn.

– Việt Nam có chung đường biên giới với 03 nước Trung Quốc, Lào và Campuchia nhưng giấy tờ qua lại biên giới mỗi nước khác nhau. Các Hiệp định quy chế biên giới quốc gia mà Việt Nam đã ký với các nước thì cư dân biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia chưa được nội luật hóa.

2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ trong việc quản lý, cấp các loại giấy tờ có giá trị xuất nhập cảnh còn chồng chéo, bất cập, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước

Những bất cập trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan hệ thống hành chính nhà nước chậm được xem xét và khắc phục; chế độ công chức, công vụ không rõ ràng; chưa quy định đầy đủ, rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước tham gia quản lý xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam. Khuynh hướng cải cách hành chính để nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý, cho người thi hành công vụ hơn là tháo gỡ cho tổ chức, cá nhân, cụ thể:

– Theo quy định của Chính phủ, hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ được cấp cho cán bộ, công chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử ra nước ngoài thực hiện công vụ nhà nước, đồng thời giao cho Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền cử cán bộ, công chức ra nước ngoài có trách nhiệm ban hành quy chế quản lý việc ra nước ngoài của cán bộ, công chức do mình quản lý. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cơ quan chưa ban hành quy chế quản lý, chưa quản lý chặt chẽ hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ của cán bộ, công chức sau khi đi công tác về. Vì vậy nảy sinh tình trạng cán bộ, công chức sử dụng hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ để xuất cảnh về việc riêng.

– Hộ chiếu thuyền viên được cấp cho thuyền viên hoạt động trên tàu biển để xuất cảnh, nhập cảnh qua các cửa khẩu cảng biển quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tế phát sinh nhiều trường hợp phải xuất cảnh, nhập cảnh qua các cửa khẩu khác như việc thay đổi thuyền viên, thuyền viên bị ốm hoặc vì lý do khác về nước phải xin ý kiến của cơ quan chức năng của nước thẩm quyền nơi tàu neo đậu. Để khắc phục những khó khăn trên, hầu hết các thuyền viên mặc dù đã được cấp hộ chiếu thuyền viên vẫn đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông nên các thuyền viên luôn có cả hộ chiếu phổ thông và hộ chiếu thuyền viên. Hiện nay, Luật Hàng hải 2015 đã bỏ hộ chiếu thuyền viên. Do đó, cần phải bỏ quy định về hộ chiếu thuyền viên cho phù hợp.

2.3. Công tác phối hợp, chia sẽ thông tin trong kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu còn nhiều hạn chế, có lúc, có nơi chưa kịp thời

Việt Nam có đường biên giới tiếp giáp với 3 nước (Trung Quốc, Lào, Campuchia), có hơn 70 cửa khẩu quốc tế, hơn 20 cửa khẩu quốc gia và hàng trăm đường tiểu mạch. Trong đó, Bộ Công an chỉ quản lý 16 cửa khẩu quốc tế (11 cửa khẩu đường hàng không và 5 cửa khẩu đường thuỷ), Bộ đội Biên phòng (Bộ Quốc phòng) quản lý 22 cửa khẩu quốc tế, 18 cửa khẩu chính, 89 cửa khẩu phụ, kiểm soát 186 bến cảng nên việc trao đổi thông tin liên quan đến tình hình, xử lý vi phạm của công dân tại các cửa khẩu chưa được đầy đủ, kịp thời.

Mặc dù Chính phủ đã ra Nghị định 77 quy định về công tác phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, Tổng cục An ninh đã ký quy chế phối hợp với Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, việc ký quy chế đến tận cấp Cục. Tuy nhiên, công tác phối hợp vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Hai bên sử dụng hai hệ thống kiểm soát dữ liệu trên máy tính khác nhau, việc kết nối đường truyền dữ liệu các đối tượng chưa cho xuất cảnh, tạm hoãn xuất cảnh, thông tin công dân xuất cảnh qua các cửa khẩu đường bộ vẫn chưa thông suốt, chủ yếu làm thủ công, mất nhiều thời gian.

– Việc tham mưu cho Chính phủ trong nghiên cứu, rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác quản lý, kiểm soát xuất nhập cảnh và duy trì an ninh, trật tự khu vực biên giới, cửa khẩu chưa đạt yêu cầu đặt ra, bộc lộ nhiều bất cập, có nhiều lực lượng cùng hoạt động ở khu vực biên giới, song cơ chế phối hợp xử lý, giải quyết các tình huống không rõ ràng, đùn đẩy trách nhiệm. Theo quy định tại Nghị định 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 về quy chế quản lý biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 về quy chế quản lý cửa khẩu biên giới quốc gia, trong đó giao cho Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ trì đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới đất liền. Tuy  nhiên, trên thực tế danh sách các xã, phường, thị trấn thuộc khu vực biên giới có trụ sở Công an cấp huyện, thị xã. Đây là lực lượng được giao nhiệm vụ nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, có đủ lực lượng, phương tiện, và được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của Luật tố tụng hình sự. Trong khi đó, lực lượng Biên phòng chỉ được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu. Do đó, việc phân công nhiệm vụ trong khu vực biên giới giữa lực lượng công an, biên phòng là chưa phù hợp.

2.4. Công tác phối hợp trong việc quản lý, bảo hộ quyền công dân giữa các bộ, ngành còn nhiều hạn chế, chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng, thậm chí có nơi, có lúc buông lỏng công tác quản lý

– Tình trạng công dân xuất cảnh trái phép ra nước ngoài vẫn tiếp diễn, xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm việc làm, những năm gần đây có nhiều công dân Việt Nam xuất cảnh tự phát ra nước ngoài tìm kiếm việc làm, nhất là khi các thị trường truyền thống của lao động Việt Nam (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…) bị xiết chặt thì tình trạng công dân tự phát ra nước ngoài tìm kiếm việc lại diễn ra khá phổ biến và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp: người lao động không được bảo vệ quyền lợi, bị bóc lột sức lao động, xâm hại thân thể, không đảm bảo điều kiện an toàn lao động, bị chính quyền nước sở tại bắt giữ, trục xuất về nước. Việc phân công đàm phán, ký kết các Hiệp định nhận trở lại công dân chưa có sự thống nhất, có lúc thì giao cho Bộ Ngoại giao, có lúc thì giao cho Bộ Công an, dẫn đến chồng chéo, khó khăn trong quá trình thực hiện.

– Công tác phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội trong việc đưa công dân ra nước ngoài lao động, quản lý công dân Việt Nam ở nước ngoài chưa chặt chẽ, chưa có sự trao đổi tình hình công dân trốn ở lại, vi phạm pháp luật của nước sở tại. Thường đến khi xảy ra các sự việc phức tạp, bị phía đối tác nước ngoài đẩy đổi, trục xuất thì Bộ Công an mới nắm được sự việc.

2.5. Việc ứng dụng khoa học công nghệ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh chưa đạt hiệu quả cao; phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại trang bị cho công tác kiểm tra, kiểm soát ở cửa khẩu còn thiếu, chưa đồng bộ. Lực lượng cơ sở làm công tác quản lý xuất nhập cảnh còn mỏng, thường xuyên bị thay đổi vị trí công tác, nên ảnh hưởng đến việc triển khai, thực hiện công tác nghiệp vụ quản lý xuất nhập cảnh ở địa phương; trình độ tin học và ngoại ngữ của cán bộ làm công tác quản lý còn hạn chế.

2.6. Sự chỉ đạo của Chính phủ cũng như các bộ, ngành trung ương rất ráo riết, song sự chuyến thực tế tại địa phương chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhận thức về tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của công tác cải cải thủ tục hành chính trên lĩnh vực xuất nhập cảnh của một bộ phần cán bộ chưa ngang tầm. Thực tế về chủ trương trên Bộ thì rất thông thoáng, nhưng khi xuống đến tận địa phương thì có lúc, có nơi chưa thực sự tạo thuận lợi cho nhân dân.

2.7. Năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác ở các cấp, các ngành, nhất là ở địa phương còn hạn chế; việc hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn chưa cụ thể và không thường xuyên. Lực lượng quản lý xuất nhập cảnh ở địa phương còn mỏng, thường xuyên bị luân chuyển, thay đổi vị trí công tác; trình độ tin học, ngoại ngữ của cán bộ làm công tác quản lý còn hạn chế.

2.8. Một số hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập cảnh của Việt Nam so với luật của các nước trong khu vực và thế giới

Qua nghiên cứu Luật xuất cảnh, Luật hộ chiếu của các nước (Đức, Singapore, Trung Quốc, Nga, Anh, Úc…) có thể rút ra được một số hạn chế, tồn tại so sánh giữa các quy phạm pháp luật của Việt Nam với các nước trên ở một số điểm sau:

– Các nước đều ban hành luật để điều chỉnh lĩnh vực xuất nhập cảnh của công dân, một số nước vừa có Luật xuất nhập cảnh, vừa có Luật hộ chiếu cùng điều chỉnh về việc xuất nhập cảnh của công dân. Các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục cấp hộ chiếu, thẩm quyền cấp, quyền, nghĩa vụ của công dân đều được quy định cụ thể trong luật.

– Việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh trong luật của các nước đều hướng tới mục tiêu đơn giản hóa, giảm gánh nặng hành chính cho người dân và doanh nghiệp, giảm quan liêu và chi tiêu công, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh. Các thủ tục hành chính được quy định công khai, minh bạch, làm cho người dân, doanh nghiệp được hưởng lợi, đồng thời tinh giảm bộ máy thực thi công tác quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh, theo hướng tập trung vào một đầu mối.

– Các nước đều khẳng định hộ chiếu là tài sản quốc gia, nên trong luật quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục cấp, quản lý và thu hồi hộ chiếu; trách nhiệm của công dân trong việc quản lý hộ chiếu. Do đó, thời gian để cấp hộ chiếu lần đầu thường dài. Ví dụ như ở Anh, công dân phải mất 6 tuần để được cấp hộ chiếu người lớn lần đầu. Theo Luật hộ chiếu Đức, ngoài việc cung cấp các thông tin cần thiết, người đề nghị cấp hộ chiếu còn phải lấy dấu vân tay, các đặc điểm sinh trắc học. Cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác minh về nhân thân của người đề nghị cấp hộ chiếu.

– Việc quy định thời hạn cấp hộ chiếu cũng rất linh hoạt, tùy vào điều kiện tự nhiên, đi lại thuận lợi của từng địa phương. Ví dụ như ở Trung Quốc, thời gian cấp là 15 ngày, trong trường hợp xa xôi, giao thông không thuận tiện hoặc do tình huống đặc biệt thì có thể kéo dài 30 ngày. Việc quy định linh hoạt như trên sẽ giảm áp lực cho cơ quan cấp cấp hộ chiếu về áp lực thời gian. Ngoài ra, một số nước quy định trường hợp đặc biệt để cấp hộ chiếu nhanh cho dân trong thời hạn 03 ngày. Ví dụ như ở Nga, luật quy định trong trường hợp đặc biệt (cấp cứu chữa bệnh nặng, mất người thân) và có yêu cầu xuất cảnh sớm: thời hạn cấp không vượt quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nộp đơn xin cấp hộ chiếu.

– Về tính năng của hộ chiếu, các nước đều nghiên cứu, áp dụng và quy định hộ chiếu điện tử vào trong luật. Hộ chiếu có gắn thiệt bị điện tử lưu giữ dữ liệu sinh trắc học đặc trưng của người mang hộ chiếu.

– Việc kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu xuất nhập cảnh của công dân dùng chung cho các cơ quan nhà nước khác có nhu cầu khai thác được các nước chú ý và quy định trong luật. Qua đó sẽ giảm bớt được các thủ tục hành chính liên quan đến giấy tờ tùy thân của công dân khi đến liên hệ công tác tại các cơ quan hành chính nhà nước./.

 

Theo CTTĐT Bộ Công an