Nhà nước Đại Cồ Việt mở ra kỷ nguyên mới, tạo nền móng cho một Việt Nam tự chủ

2155
Đánh giá bài viết

Ngày 24/4/2018, tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, một vùng đất gắn liền với sự hình thành nhà nước Đại Cồ Việt do Đinh Bộ Lĩnh sáng lập sẽ diễn ra lễ kỷ niệm “1050 năm Nhà nước Đại Cồ Việt”. Đây là một họat động chính trị có ý nghĩa giáo dục sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt NamTừ đó, khơi dậy niềm tự hào, lòng yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

 

 

 QUỐC HIỆU “ĐẠI CỒ VIỆT” TỒN TẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC TỪ NĂM 968 ĐẾN NĂM 1054, TRẢI QUA 03 TRIỀU ĐẠI; ĐINH (968 – 980), TIỀN LÊ (980 – 1009) VÀ THỜI KỲ ĐẦU CỦA NHÀ LÝ (1009 – 1054)

 

 

 

 

Bối cảnh ra đời của Nhà nước Đại Cồ Việt

 

Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào cuối năm 939, Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Đây là một sự kiện có ý nghĩa bước ngoặt mở ra một chương mới tươi sáng trong tiến trình lịch sử dân tộc – thời kỳ độc lập tự chủ. Dưới thời vương triều Ngô, về đại thể, mô hình nhà nước vẫn còn trong tình trạng sơ khai, chưa hoàn thiện và chưa đủ khả năng quản lý đất nước một cách chặt chẽ.

Năm 944, Ngô Quyền mất, triều đình rối ren. Các thổ hào, tù trưởng nổi lên khắp nơi chống lại chính quyền Trung ương. Sau khi các con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn) chết, đất nước rơi vào tình cảnh chia cắt, hỗn loạn. Nổi lên 12 vùng đất biệt lập do 12 thủ lĩnh đứng đầu, lịch sử gọi là “Loạn 12 sứ quân”.

 

Tượng Đài Đinh Tiên Hoàng.

Cùng thời gian xuất hiện “12 sứ quân”, năm 960, ở Trung Quốc nhà Tống thành lập, chấm dứt thời kỳ “ngũ đại thập quốc” và bắt đầu mở thế lực xuống phía Nam. Nguy cơ ngoại xâm lại xuất hiện và đe dọa. Đất nước đứng trước một thử thách lớn. Từ đất Hoa Lư (Ninh Bình), người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh đã phất cờ, tập hợp dân chúng, giải quyết vấn đề lịch sử đặt ra: “dẹp loạn 12 sứ quân”, thống nhất đất nước vào cuối năm 967.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (tức nước Việt to lớn), định đô ở Hoa Lư, xây dựng triều chính và quản lý đất nước. Kinh đô Hoa Lư do Vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) tổ chức xây dựng là một công trình kiến trúc lớn nhất của đất nước sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc.

Mùa Xuân năm 970, Đinh Tiên Hoàng bỏ không dùng niên hiệu của nhà Tống, tự đặt niên hiệu Thái Bình. Với việc xưng đế, đặt quốc hiệu, dựng kinh đô, định niên hiệu, Đinh Tiên Hoàng đã khẳng định nền độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt và bắt tay vào xây dựng một mô hình nhà nước với thiết chế mới: Quân chủ Trung ương tập quyền. Đây là nhà nước đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

 

Nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời nhà Đinh (968-980)

 

Về tổ chức Bộ máy nhà nước: Đinh Tiên Hoàng đã hoàn thiện tổ chức Bộ máy quản lý đất nước từ hình thức “Vương quyền”, chuyển sang hình thức “Đế quyền”, với 3 cấp: Triều đình Trung ương – Đạo – Giáp, Xã. Nhìn chung, bộ máy hành chính thời kỳ này là bộ máy chính quyền quân chủ mới còn khá sơ khai, đơn giản, chưa thật hoàn bị, nhưng việc củng cố bộ máy chính quyền Nhà nước quân chủ của Đinh Tiên Hoàng đã được lịch sử ghi nhận là: “…Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ…”

Phả hệ các triều vua Đại Cồ Việt ở khu di tích cố đô Hoa Lư.

Về quân đội: Về cơ bản Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh là một nhà nước võ trị; quân đội đông và tương đối mạnh. Điểm nổi bật nhất trong tổ chức quân sự phòng giữ đất nước thời này là tổ chức “Thập đạo quân”, trong đó, Thập đạo tướng quân là người đứng đầu quân đội; bên dưới đạo có các loại: Quân, lữ, tốt, ngũ. Quân thường trực thời Đinh bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất. Binh lính đều đội mũ “Tứ phương bình đinh” bằng da. Và quân túc về đều thích trên trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các loại quân khác. Quân đội được trang bị các loại bạch khí, kết hợp giữa giáo, kiếm, côn với cung, nỏ…

Về luật pháp: Cùng với từng bước xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương, xây dựng, củng cố lực lượng quân sự, nền pháp chế thời kỳ này cũng bắt đầu được để ý đến. Đinh Tiên Hoàng đã đặt chức Đô hộ phủ sĩ sư coi việc hình án – một chức quan tư pháp và giao cho Lưu Cơ giữ chức này. Mặc dù vậy, dưới chế độ võ trị, luật pháp thời Đinh còn nghiêm khắc và tùy tiện, dựa theo ý muốn của nhà vua. Vua Đinh cho đặt vạc dầu và cũi hổ ở sân triều để trừng phạt phạm nhân.

Về kinh tế: Kinh tế nông nghiệp được quan tâm. Nhà vua nắm toàn bộ ruộng đất trong nước, vừa để khẳng định quyền lực vừa để nắm lấy thần dân, thu tô thuế, bắt lính; đồng thời cũng quan tâm tới việc khai hoang, lập làng, mở rộng diện tích canh tác xuống vùng đồng bằng và ven biển. Một số ngành nghề thủ công cũng được chú ý phát triển như: Nghề thợ nề, thợ đá, mộc, chạm khắc, dát vàng, bạc…chủ yếu để phục vụ vua quan và quân đội. Trong dân gian, các nghề truyền thống như: Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, lụa, làm giấy tiếp tục phát triển. Đồng tiền đầu tiên của đất nước: Đồng Thái Bình Hưng Bảo được phát hành vào khoảng năm 970 đã thúc đẩy việc trao đổi buôn bán hàng hóa trong nhân dân đồng thời phục vụ cho việc trao đổi buôn án vật phẩm với Trung Quốc và với các thuyền buôn nước ngoài.

Về Văn Hóa: Cùng với việc xây dựng một chính quyền nhà nước có chủ quyền, vua Đinh Tiên Hoàng cũng chú ý đến phát triển văn hóa; những mầm móng đầu tiên của một nền văn hóa mang tính dân tộc. Đạo phật là chỗ dựa tinh thần và có vị trí lớn trong đời sống xã hội Đại Cồ Việt cũng như trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh. Ở kinh đô Hoa Lư đã xây dựng nhiều chùa chiền. Nhiều nhà sư đã trở thành cố vấn cho vua Đinh về đường lối đối nội và đối ngoại.

Về đối ngoại: Ngay sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã có một chính sách đối ngoại khéo léo, mềm dẻo để giữ gìn hòa bình cho dân tộc.

Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở Động Hoa Lư.

 

Đinh Tiên Hoàng người có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt nam sau thời Bắc thuộc; người đặt nền móng sáng lập Nhà nước Đại Cồ Việt-Nhà nước quân chủ Trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam. Tuy chỉ tồn tại trong 12 năm (968-980) nhưng Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh đã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam, tạo cơ hội ban đầu để các vương triều sau này bổ sung, củng cố và điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến loại hình phương Đông ở nước ta. Từ đây đất nước của cộng đồng các dân tộc Việt, bằng sức sống bền bỉ và năng động của mình đã vươn lên mạnh mẽ, đủ sức chống chọi với mọi âm mưu và hành động xâm lược của giặc ngoại xâm, giữ một vị trí quan trọng trong khu vực trước những biến động lớn đã từng xảy ra và còn tiếp diễn ở nhiều thế kỷ sau này. Đây là Nhà nước mở đầu cho thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc.

Như vậy, kể từ thế kỷ X, trên hành trình lịch sử Đại Cồ Việt – Đại Việt – Đại Nam – Việt Nam, Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Đinh) mãi mãi xứng đáng với vị trí mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc. Như lời sử thần Lê Tung trong Việt giám thông khảo tổng luận nhận định: “Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc, dẹp được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi… sang chế triều nghi, định lập quân đội. Vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy…”. Hay, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Lịch sử nước Nam ta” cũng dành cho Đinh Tiên Hoàng nói riêng, Nhà nước Đại Cồ Việt (thời Đinh) nói chung những lời tốt đẹp:

 

“Đến hồi thập nhị sứ quân

Bốn phương loạn lạc muôn dân cơ hàn

Động Hoa Lư, cõi Tiên Hoàng

Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh

Ra tài kiến thiết kinh dinh”.

 

Nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời Tiền Lê (980-1009) và thời kỳ đầu của nhà Lý (1009-1054)

 

Dưới thời Tiền Lê và thời kỳ đầu của nhà Lý (980-1054), Nhà nước Đại Cồ Việt tiếp tục phát triển về mọi mặt; nền độc lập tự chủ của dân tộc được củng cố vững chắc.

Về tổ chức bộ máy: Chính quyền Trung ương thời Tiền Lê được giữ nguyên như thời Đinh, vua nắm mọi quyền hành cả dân sự lẫn quân sự. Vua Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) vẫn đóng đô ở Hoa Lư. Năm 984 cho xây dựng nhiều cung điện với quy mô to lớn hơn. Năm 1006, Vua Lê Long Đĩnh cho sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn, võ và tăng đạo. Chế độ phong tước và cấp thái ấp dưới thời Tiền Lê được thực hiện quy củ hơn trước.

Lê Hoàn đại phá quân tống năm 981.

Thời nhà Lý: Các vua Lý tự xưng là Thiên tử, lập các ngôi Hoàng hậu và Thái tử, phong tước cho con cháu, người thân trong họ hàng cùng quan lại có công tôn phù. Hệ thống quan chức được chia làm 9 phẩm cấp, ngoài ra, còn có một số cơ quan chuyên trách, giúp việc cho vua.

Sang thời Lý năm 1010, Lý Công Uẩn chia nước thành các lộ và phủ; dưới phủ là huyện và cuối cùng là hương, giáp; miền núi và vùng xa trung ương thì chia thành châu, trại. Đây là công cuộc cải tổ hành chính có quy mô lớn, góp phần quan trọng trong công cuộc quản lý toàn diện đất nước.

Đến thời nhà Lý năm 1042, Lý Thái Tông cho soạn bộ “Hình thư” gồm 3 quyển, xuống chiếu ban hành trong dân gian. Đây là Bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam, thể hiện một bước tiến quan trọng trong việc trị nước của nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ.

Nhà nước Đại Cồ Việt ra đời, tồn tại và phát triển đã khẳng định sức mạnh của ý chí độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước của nhân dân ta sau nghìn năm Bắc thuộc. Đây là nhà nước quân chủ Trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Toàn cảnh cố đô Hoa Lư kinh đô đầu tiên của nhà nước Đại Cồ Việt do Đinh Tiên Hoàng Đế sáng lập.

Nhà nước Đại Cồ Việt đã mở ra những trang sử vẻ vang của dân Việt Nam trong thời kỳ đầu xây dựng và bảo vệ đất nước – kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài xuyên suốt các triều đại Đinh, Lê, Lý và Trần, Hậu Lê sau này, cụ thể:

Nhà nước Đại Cồ Việt đã có công lao trong việc giữ gìn, củng cố nền độc lập dân tộc trong một thời gian gần một thế kỷ. Trong thời kỳ này, các vương triều phương Bắc mang quân sang xâm lược nhưng đều bị chống trả quyết liệt.

Các chủ trương, chính sách và những thành tựu, kết quả của Nhà nước Đại Cồ Việt đã đặt nền móng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, đối ngoại, giao thông…của nhà nước phong kiến Việt nam tiến trình lịch sử dân tộc. 

 

 

 

 Công an Quảng Bình đã hướng dẫn, chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương tổ chức tuyên truyền Đề cương kỷ niệm 1050 năm Nhà nước Đại Cồ Việt (968-2018) sâu rộng trong CBCS gắn với tuyên truyền, thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Chính sách pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị của quê hương, đất nước và các phong trào thi đua trong toàn lực lượng thông qua các hình thức như: Nghe báo cáo viên, tuyên truyền viên truyền đạt, nói chuyện chuyên đề qua sinh hoạt chi bộ, đơn vị định kỳ hàng tháng, đọc báo đầu giờ… Đồng thời chỉ đạo tăng cường tuyên truyền đậm nét sự ra đời, vị trí, vai trò của Nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử dân tộc, thể hiện sức mạnh của ý chí độc lập, tự chủ và khát vọng hòa bình của nhân dân ta; thực hiện nhiều bài viết phản bác các thông tin, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, gây mất ANTT trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thông báo, hướng dẫn Công an các đơn vị, địa phương tổ chức cho CBCS theo dõi chương trình truyền hình trực tiếp của Đài truyền hình Việt Nam về Lễ kỷ niệm 1050 năm Nhà nước Đại Cồ Việt và khai mạc Lễ hội Hoa Lư năm 2018… Qua đó giúp mỗi CBCS Công an Quảng Bình thấm nhuần sâu sắc hơn những giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp của đất nước, thể hiện lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đến các bậc tiền nhân đã có công dựng và giữ nước, nguyện không ngừng nỗ lực, cố gắng đóng góp công sức, trí tuệ của mình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập ngày nay.     

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TH