Những nội dung cơ bản của Luật Quản lý ngoại thương năm 2017

2127
Đánh giá bài viết

Tại Kỳ họp thứ 2, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua 15 luật, trong đó có Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an nhân dân và công tác đảm bảo an ninh, trật tự.

 

Ảnh minh họa.

 

Cổng TTĐT Công an Quảng Bình xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Quản lý ngoại thương năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Luật Quản lý ngoại thương gồm 08 chương, 113 điều, cụ thể như sau:

  1. Những quy định chung

1.1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2), Luật quy định: 

– Về phạm vi điều chỉnh: Luật này quy định về biện pháp quản lý ngoại thương, phát triển hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương.

Như vậy, Luật không điều chỉnh, can thiệp vào các hoạt động cụ thể của thương nhân, giữa các thương nhân với nhau mà điều chỉnh các quan hệ giữa nhà nước và thương nhân.

Ngoài ra, Luật chỉ điều chỉnh đối tượng là hàng hóa, không điều chỉnh đối tượng dịch vụ. Trong quá trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị nên quy định trong Luật một số nguyên tắc quản lý chung cho cả hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, đối với xuất nhập khẩu dịch vụ, hiện nay theo quy định tại Quyết định số 28/2012/QĐ-TTg ngày 17/05/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì 12 nhóm ngành dịch vụ xuất, nhập khẩu đã được quy định cụ thể như du lịch, vận tải, bưu chính và viễn thông, xây dựng, bảo hiểm, tài chính, máy tính và thông tin… Theo đó, các lĩnh vực dịch vụ này được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật chuyên ngành (Luật Viễn thông, Luật Xây dựng, Luật Du lịch, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán…). Ngoài ra, do tính chất đặc thù của dịch vụ, việc xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ được thông qua 2 phương thức. Một là, cung cấp qua biên giới, trong đó, nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ không gặp nhau; họ vẫn ở 2 nước khác nhau và dịch vụ được cung cấp từ nước này vào nước kia. Hai là, tiêu dùng ngoài lãnh thổ, trong đó người sử dụng dịch vụ phải đi ra nước ngoài để tiếp cận dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ. Với 2 phương thức đặc thù như vậy, cùng với sự đa dạng của các loại hình dịch vụ, việc đề ra các quy tắc chung và các biện pháp quản lý chung cho xuất nhập khẩu dịch vụ trong một luật là không khả thi. Vì vậy, như tất cả các nước khác, Việt Nam sử dụng các biện pháp sau biên giới để quản lý. Các biện pháp này đều đã được cụ thể hóa trong các luật chuyên ngành. Nếu Luật Quản lý ngoại thương cũng quy định về xuất nhập khẩu dịch vụ, sẽ tạo nên sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật hiện hành. Mặc dù không điều chỉnh hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ nhưng Luật Quản lý ngoại thương đã quy định một số biện pháp mang tính chất hỗ trợ phát triển hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thông qua hỗ trợ phát triển các dịch vụ liên quan trực tiếp đến xuất nhập khẩu hàng hóa.

– Đối tượng áp dụng: cơ quan quản lý nhà nước, thương nhân tham gia hoạt động ngoại thương, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài khác có liên quan.

1.2. Về nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương

Thực hiện quan điểm chỉ đạo, chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước cũng như bảo đảm thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và phù hợp với xu thế hội nhập sâu rộng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Điều 4 của Luật quy định nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương như sau: 

“1. Nhà nước quản lý ngoại thương theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

  1. Bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu.
  2. Bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

1.3. Về quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu

Trong bối cảnh, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lần đầu tiên, Luật đã khẳng định: “Thương nhân được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu và thực hiện các hoạt động khác có liên quan không phụ thuộc vào ngành, nghề đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu” (điểm a khoản 1 Điều 5).

Riêng đối với đối tượng thương nhân là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam, thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 5).

Việc quy định quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu như trên phù hợp với tinh thần Hiến pháp, phù hợp với tinh thần tiến bộ của Luật Đầu tư và Điều 7 Luật Doanh nghiệp.

1.4. Về trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương

Luật quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ngoại thương, Bộ Công thương là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về ngoại thương. Luật cũng quy định nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về ngoại thương của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và chính quyền địa phương cấp tỉnh.

Việc quy định, giao nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho Bộ Công thương, các bộ, chính quyền địa phương phù hợp với các biện pháp quản lý quy định trong Luật và theo nguyên tắc “một biện pháp do một cơ quan đầu mối phụ trách”.

1.5. Về các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý ngoại thương

Luật quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm thực hiện trong quản lý ngoại thương tại Điều 7, cụ thể như sau:

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của pháp luật về quản lý ngoại thương, cản trở hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hợp pháp, xâm phạm quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân quy định tại Điều 5 của Luật này.

– Áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương không đúng thẩm quyền; không đúng trình tự, thủ tục.

– Tiết lộ thông tin bảo mật của thương nhân trái pháp luật.

– Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa bị cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, trừ trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 10 và khoản 1 Điều 14 của Luật này; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, theo điều kiện mà không có giấy phép, không đáp ứng đủ điều kiện; hàng hóa không đi qua đúng cửa khẩu quy định; hàng hóa không làm thủ tục hải quan hoặc có gian lận về số lượng, khối lượng, chủng loại, xuất xứ hàng hóa khi làm thủ tục hải quan; hàng hóa theo quy định của pháp luật phải có tem nhưng không dán tem.

– Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa mà vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5 của Luật này.

– Gian lận, làm giả giấy tờ liên quan đến hoạt động quản lý ngoại thương.

  1. Các biện pháp hành chính

Các biện pháp áp dụng trong quản lý ngoại thương hàng hóa của Việt Nam được quy định tại chương này đảm bảo hài hòa, lồng ghép giữa hai nguyên tắc cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và thương nhân được kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm. Theo đó, các biện pháp mang tính hạn chế quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu được quy định nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, an ninh quốc phòng, hoặc phù hợp cam kết quốc tế… phải thực hiện theo những nguyên tắc quy định trong Luật và chỉ được áp dụng đối với danh mục hàng hóa cụ thể. Những hàng hóa ngoài các danh mục này được tự do xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể các biện pháp như sau:

2.1. Biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Mục 1).

Về cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu (Tiểu mục 1).

Luật quy định các trường hợp áp dụng biện pháp cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu (Điều 9), theo đó việc cấm xuất khẩu hàng hóa chỉ áp dụng đối với các trường hợp liên quan đến quốc phòng, an ninh chưa được phép xuất khẩu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; bảo vệ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa; theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc cấm nhập khẩu hàng hóa chỉ áp dụng đối với các trường hợp liên quan đến quốc phòng, an ninh chưa được phép nhập khẩu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; gây nguy hại đến sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục; gây nguy hại đến môi trường, đa dạng sinh học, có nguy cơ cao mang theo sinh vật gây hại, đe dọa an ninh lương thực, nền sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí này, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu (khoản 1 Điều 10).

Quy định như trong Luật vẫn đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo tinh thần của Hiến pháp, do các quy định tại Điều 9 đã phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 và Điều 33 Hiến pháp, đồng thời đáp ứng yêu cầu về tính linh hoạt trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu công cộng chính đáng. Sự lạm dụng, tùy tiện trong xây dựng Danh mục này là gần như không thể xảy ra do tất cả các đối tác thương mại của Việt Nam trong WTO và trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) đều theo dõi rất sát sao để bảo đảm Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam là phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chí của điều ước quốc tế.

Ngoài ra, Luật cũng quy định trường hợp ngoại lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu để phục vụ mục đích đặc dụng, bảo hành, phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, bảo vệ quốc phòng, an ninh (khoản 2 Điều 10).

Về biện pháp tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu (Tiểu mục 2).

Do có tính thời điểm rất cao nên việc áp dụng biện pháp tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu phải được quyết định theo một quy trình nhanh nhằm kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích người tiêu dùng. Mặt khác, khi áp dụng biện pháp này vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc quy định tại Điều 9 và phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời phải chịu sự giám sát chặt chẽ của tất cả các bên tham gia điều ước quốc tế đó. Do vậy, Luật quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu được giao cho Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định, trừ trường hợp pháp luật về thú y, bảo vệ và kiểm dịch thực vật có quy định khác (khoản 1 Điều 13). Ngoài ra, khoản 1 Điều 14 cũng quy định Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định cho phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đã có quyết định tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu nhằm phục vụ mục đích đặc dụng, bảo hành, phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế, sản xuất dược phẩm, bảo vệ quốc phòng, an ninh, trên cơ sở lấy ý kiến hoặc theo đề xuất của Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan, trừ trường hợp pháp luật về thú y, bảo vệ và kiểm dịch thực vật có quy định khác.

2.2. Hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu (Mục 2)

Luật quy định chi tiết các biện pháp hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu bao gồm hạn chế về số lượng, khối lượng, trị giá của hàng hóa, thương nhân và cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thông qua việc thực hiện chế độ hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, chỉ định cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu, chỉ định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

Hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu (Tiểu mục 2)

Khoản 1 Điều 18 quy định biện pháp hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu khi hàng hóa thuộc một trong các trường hợp sau: theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đối với hàng hóa bảo đảm cân đối vĩ mô, tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ; khi nước nhập khẩu áp dụng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Hạn ngạch thuế quan (Tiểu mục 3)

Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan được quy định tại Điều 21 như sau:

“1. Áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan xuất khẩu, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

  1. Không áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với số lượng, khối lượng, trị giá của hàng hóa được dùng để sản xuất, gia công hàng hóa xuất khẩu.
  2. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan xuất khẩu, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu phải bảo đảm công khai, minh bạch về số lượng, khối lượng, trị giá của hàng hóa; công khai, minh bạch, khách quan về phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan xuất khẩu, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu”.

 Đây là biện pháp Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO, theo đó, có 04 mặt hàng sẽ được Việt Nam duy trì cơ chế hạn ngạch thuế quan, bao gồm: trứng gia cầm, muối, đường, lá thuốc lá. Ngoài ra, Việt Nam còn áp dụng trong trường hợp có ưu đãi đặc biệt đối với một số đối tác thương mại đặc biệt như Lào, Campuchia hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chỉ định cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu (Tiểu mục 4): đây là biện pháp được áp dụng với mục đích quản lý, kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chống chuyển tải bất hợp pháp, chống gian lận thương mại, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; phù hợp với điều kiện hạ tầng vật chất, kỹ thuật của từng cửa khẩu, bảo đảm quốc phòng, an ninh (khoản 1 Điều 24). Thương nhân có quyền tự do lựa chọn cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trong các cửa khẩu đã được chỉ định (khoản 3 Điều 24).

Chỉ định thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu (Tiểu mục 5): là biện pháp được áp dụng khi hàng hóa thuộc một trong các trường hợp sau: theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hàng hóa độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật về thương mại; hàng hóa phải áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp quy định tại Chương V của Luật này (khoản 1 Điều 27).

Đây là biện pháp Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO theo đó biện pháp này chỉ áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp thương mại nhà nước đối với một số mặt hàng như thuốc lá điếu, xuất bản phẩm… được cam kết tại Bảng 5 Đoạn 72 Báo cáo Ban Công tác gia nhập WTO của Việt Nam. 

2.3. Quản lý theo giấy phép, theo điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu (Mục 3)

Luật quy định, quản lý theo giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương cho thương nhân để thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa (khoản 1 Điều 29).

Quản lý theo điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để quy định điều kiện về chủ thể kinh doanh, chủng loại, số lượng, khối lượng, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, địa bàn mà thương nhân phải đáp ứng khi thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không cần phải cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu (khoản 2 Điều 29).

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định: chỉ áp dụng biện pháp quản lý theo điều kiện trong các trường hợp cần thiết vì lý do trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, thuần phong mỹ tục, bảo vệ môi trường (khoản 1 Điều 30).

Trên cơ sở các quy định trên, Điều 31 quy định giao Chính phủ quy định Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, theo điều kiện.

2.4. Chứng nhận xuất xứ hàng hóa (Mục 4)

– Pháp luật quy định việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa phải có chứng nhận xuất xứ hàng hóa;

– Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo đề nghị của thương nhân hoặc do thương nhân tự chứng nhận đối với các trường hợp không thuộc 2 trường hợp nêu trên.

2.5. Chứng nhận lưu hành tự do (Mục 5)

Luật quy định Giấy chứng nhận lưu hành tự do là văn bản chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp cho thương nhân xuất khẩu hàng hóa để chứng nhận hàng hóa đó được phép lưu hành tự do tại nước xuất khẩu (khoản 1 Điều 36). Danh mục hàng hóa phải áp dụng giấy chứng nhận lưu hành tự do và thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận lưu hành tự do do Chính phủ quy định (Điều 38).

2.6. Các biện pháp quản lý hoạt động ngoại thương khác (Mục 6)

Luật quy định các biện pháp quản lý hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh; đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài; ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài và đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài (Điều 39 đến Điều 52). 

Về tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu (Tiểu mục 1)

Kinh doanh tạm nhập, tái xuất được hiểu là việc thương nhân mua hàng hóa từ một nước đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc từ khu vực hải quan riêng đưa vào nội địa và bán chính hàng hóa đó sang nước, khu vực hải quan riêng khác. Hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất chỉ được lưu lại lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn nhất định.

Khoản 1 Điều 40 quy định các hàng hóa bị cấm kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu gồm: hàng hóa là chất thải nguy hại, phế liệu, phế thải; hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hàng hóa là hàng tiêu dùng đã qua sử dụng có nguy cơ gian lận thương mại; hàng hóa có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con người.

Đối với tạm xuất, tái nhập hàng hóa, khoản 1 Điều 42 quy định thương nhân được tạm xuất, tái nhập hàng hóa để phục vụ mục đích bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa, sản xuất, thi công, thuê, mượn, trưng bày, triển lãm hoặc để sử dụng vì mục đích khác theo hợp đồng với nước ngoài.

Quá cảnh hàng hóa (Tiểu mục 2)

Luật quy định thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước trong việc cho phép quá cảnh hàng hóa tại Điều 44 như sau:

(1). Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cho phép quá cảnh hàng hóa là vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.

(2). Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp phép quá cảnh đối với hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu; hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật.

(3). Hàng hóa không thuộc quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được quá cảnh lãnh thổ Việt Nam và chỉ phải làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập đầu tiên và cửa khẩu xuất cuối cùng theo quy định của pháp luật về hải quan.

Thời gian quá cảnh lãnh thổ Việt Nam tối đa là 30 ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập, trừ trường hợp được gia hạn; trường hợp hàng hóa được lưu kho tại Việt Nam hoặc bị hư hỏng, tổn thất; phương tiện vận tải chở hàng quá cảnh bị hư hỏng trong quá trình quá cảnh (khoản 1 Điều 47).

Đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài (Tiểu mục 3)

Luật quy định thương nhân được nhận làm đại lý mua bán hàng hóa hợp pháp cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc hàng hóa tạm ngừng nhập khẩu và được thuê thương nhân nước ngoài làm đại lý mua bán hàng hóa tại nước ngoài đối với hàng hóa không thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu.

Ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu (Tiểu mục 4).

Trên cơ sở quyền tự do kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân, luật quy định thương nhân được ủy thác xuất khẩu, ủy thác nhập khẩu hàng hóa không thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc không phải là hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.

Gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài và đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài (Tiểu mục 5)

Luật quy định thẩm quyền cho phép thực hiện hoạt động gia công hàng hóa trong một số trường hợp đặc biệt, theo đó đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng nhận gia công sau khi được Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp phép. Ngoài ra, thương nhân được thực hiện hoạt động gia công hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài khi Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép.

2.7. Hoạt động ngoại thương với các nước có chung biên giới (Mục 7)

Nội dung quản lý bao gồm quy định khung pháp lý chung về các biện pháp quản lý đặc thù được áp dụng đối với hoạt động ngoại thương với nước có chung biên giới, các nguyên tắc trong quản lý hoạt động thương mại biên giới nói chung và nguyên tắc phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong hoạt động thương mại biên giới nói riêng. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có biên giới quyết định, công bố Danh mục các cửa khẩu khác và nơi mở ra cho qua lại biên giới được phép thực hiện hoạt động thương mại biên giới bảo đảm các điều kiện và chịu sự giám sát, quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật có liên quan. Trường hợp hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua các khu vực trên bị ách tắc, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có biên giới, căn cứ vào điều kiện hạ tầng, kỹ thuật tại khu vực đó, có thể áp dụng biện pháp ưu tiên xuất khẩu hàng hóa là thực phẩm tươi sống, nông sản mau hỏng hoặc tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu hàng hóa cho đến khi không còn ách tắc.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định về cơ chế điều hành, phối hợp của các lực lượng tại cửa khẩu cũng như chính sách quản lý, phát triển các hoạt động hỗ trợ thương mại tại cửa khẩu để tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh người, phương tiện giao thông vận tải qua các cửa khẩu biên giới đất liền và phát triển du lịch. 

Quy định như trong Luật là phù hợp với Điều XXIV của Hiệp định GATT 1994 và các điều ước quốc tế giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới; phù hợp với đặc thù từng tuyến, tỉnh biên giới về giao thông, địa hình, dân số…; và là công cụ linh hoạt trong thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước với từng đối tác thương mại cụ thể có chung đường biên giới với nước ta.

Các quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện chính sách, pháp luật về thương mại biên giới đã được thực hiện tương đối ổn định từ năm 2006 đến nay, theo đề nghị của nhiều Bộ, ngành, cơ quan, hiệp hội, doanh nghiệp và nguyện vọng của chính quyền, nhân dân các tỉnh có chung đường biên giới các với nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia cũng như nhằm thực hiện các Điều ước quốc tế về thương mại biên giới mà Việt Nam đã ký kết với các nước này.

2.8. Quản lý hàng hóa đối với khu vực hải quan riêng (Mục 8).

Nội dung quản lý bao gồm việc phân định rõ quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu giữa nội địa với các khu vực hải quan riêng, giữa các khu vực hải quan riêng với nhau cũng như giữa khu vực hải quan riêng với bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là trong cải cách thủ tục hành chính đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thúc đẩy giao lưu thương mại, đầu tư. 

“Khu hải quan riêng” đã được đề cập tại Điều 28 Luật Thương mại 2005 và theo khoản 4 Điều 3 của Luật, “khu hải quan riêng” là khu vực địa lý xác định trên lãnh thổ Việt Nam được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, có quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa với phần lãnh thổ còn lại và nước ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.

Luật quy định chỉ áp dụng một lần các biện pháp quản lý ngoại thương hàng hóa đối với khu hải quan riêng (Điều 56, Điều 57, Điều 58), cụ thể:

– Áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa được đưa từ khu hải quan riêng ra nước ngoài như đối với hàng hóa được đưa từ nội địa ra nước ngoài.

– Không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng.

– Áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ khu hải quan riêng vào nội địa như đối với hàng hóa đưa từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam.

– Không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương, trừ biện pháp cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, biện pháp kiểm dịch đối với hàng hóa được đưa từ nước ngoài vào khu vực hải quan riêng.

– Không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa mua bán, vận chuyển giữa các khu hải quan riêng trong lãnh thổ Việt Nam.

Ngoài ra, Luật quy định trong một số trường hợp cần thiết nhằm chống gian lận thương mại và chuyển tải bất hợp pháp, Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hoặc không áp dụng một hoặc một số biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại các khu này.

  1. Các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch

Chương III quy định các biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch thực vật, động vật, kiểm dịch y tế biên giới và kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể như sau:

3.1.Về áp dụng biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch (Mục 1)

 Luật quy định mục tiêu, nguyên tắc áp dụng biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch; việc áp dụng biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch đối với từng loại hàng hóa cũng như các quy định về trình tự, thủ tục được áp dụng.

Theo đó, biện pháp kỹ thuật, kiểm dịch được áp dụng nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng hàng hóa; bảo vệ an toàn sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường sinh thái, đa dạng sinh học; phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm và bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia, trên cơ sở những nguyên tắc sau (khoản 2 Điều 60): 

– Công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và tránh tạo ra rào cản không cần thiết đối với hoạt động ngoại thương, nhất là đối với hàng hóa xuất khẩu;

– Áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong điều kiện cho phép, bảo đảm yêu cầu quản lý và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

– Bảo đảm các nguyên tắc khác theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm, đo lường, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, thú y, phòng, chống bệnh truyền nhiễm.

3.2. Về áp dụng biện pháp kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Điều 65, 66)

Luật quy định cụ thể đối tượng kiểm tra, cơ quan, tổ chức kiểm tra và trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra để thống nhất về cơ sở pháp lý, đối tượng, nguyên tắc, trách nhiệm của các Bộ, ngành trong thực hiện kiểm tra. 

  1. Biện pháp phòng vệ thương mại

Về quy định chung, khoản 1 Điều 67 quy định: các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ do Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam trong những trường hợp cụ thể.

Chương này còn quy định về nguyên tắc áp dụng, trình tự thủ tục điều tra vụ việc phòng vệ thương mại, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra, các bên liên quan trong vụ việc điều tra.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định về chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu quản lý trên thực tiễn, đảm bảo hiệu quả thực thi của các biện pháp này. Ngoài ra, Luật còn quy định về xử lý trong trường hợp hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Theo đó, khi thương nhân Việt Nam bị nước nhập khẩu điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, trên cơ sở đề nghị của hiệp hội ngành, nghề, thương nhân có liên quan, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác thực hiện các hoạt động trợ giúp sau đây cho thương nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình: cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc; trao đổi với nước nhập khẩu đang điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; khởi kiện nước nhập khẩu khi phát hiện có vi phạm điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; các hoạt động trợ giúp khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 76).

Về biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, trong đó, biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (khoản 1 Điều 77).

Về biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được trợ cấp khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp chống trợ cấp bao gồm: áp dụng thuế chống trợ cấp; cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc của Chính phủ nước sản xuất, xuất khẩu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam về việc tự nguyện chấm dứt trợ cấp, giảm mức trợ cấp, cam kết điều chỉnh giá xuất khẩu; các biện pháp chống trợ cấp khác (Điều 83).

Về biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước. Các biện pháp tự vệ bao gồm: áp dụng thuế tự vệ; áp dụng hạn ngạch nhập khẩu; áp dụng hạn ngạch thuế quan; cấp giấy phép nhập khẩu; các biện pháp tự vệ khác (Điều 91).

  1. Kiểm soát khẩn cấp trong hoạt động ngoại thương

Chương này quy định một số trường hợp áp dụng biện pháp kiểm soát khẩn cấp đối với hàng hóa (Điều 100), cụ thể:

– Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra chiến tranh, tham gia chiến tranh, xung đột hoặc có nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia của Việt Nam.

– Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.

– Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý xảy ra sự cố, thiếu sót, sai sót kỹ thuật mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc chứng minh được là có ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến an toàn, sức khỏe của người tiêu dùng hàng hóa đó.

– Hàng hóa đến từ quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực địa lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam mà cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thông tin một cách công khai hoặc có cơ sở khoa học chứng minh được sự ảnh hưởng đó.

– Mất cân đối nghiêm trọng của cán cân thanh toán.

– Các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của pháp luật.

Do việc ban hành các chính sách kiểm soát khẩn cấp có quan hệ mật thiết với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên nên việc áp dụng các biện pháp này cần phải thực hiện minh bạch, có cơ sở khoa học, không lạm dụng và trong những trường hợp thực sự cần thiết.

Chương này cũng quy định nghĩa vụ tham vấn của các cơ quan ban hành biện pháp với các đối tác thương mại chịu tác động của các biện pháp này.

  1. Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương

Chương này quy định về chính sách phát triển hoạt động ngoại thương như là một trong những công cụ quản lý nhà nước quan trọng nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động ngoại thương theo cả hai chiều xuất khẩu và nhập khẩu. Theo đó, chính sách phát triển hoạt động ngoại thương bao gồm một số nội dung như: 

– Chính sách chung về phát triển hoạt động ngoại thương của nhà nước ta hiện nay như sau (Điều 103):

+ Nhà nước có chính sách phát triển hoạt động ngoại thương thông qua các biện pháp như hoạt động tín dụng, xúc tiến thương mại và các hoạt động hỗ trợ phát triển khác nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; 

+ Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài được tham gia phát triển hoạt động ngoại thương phù hợp với quy định của pháp luật; 

+ Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương phải phù hợp với định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược ngoại thương trong từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ ban hành; 

+ Các biện pháp phát triển hoạt động ngoại thương được thực hiện hiệu quả, có sự phối hợp với các biện pháp thúc đẩy đầu tư, du lịch. 

– Luật cũng quy định một số chính sách đặc thù trong phát triển ngoại thương (Điều 104) bao gồm: 

+ Chính sách phát triển hoạt động ngoại thương đối với sản phẩm có lợi thế cạnh tranh mà trong nước sản xuất được cũng như các sản phẩm công nghệ và nguyên liệu đầu vào cần thiết phục vụ sản xuất trong nước.

+ Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tại các địa bàn miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn tham gia hoạt động ngoại thương.

– Luật còn quy định biện pháp phát triển ngoại thương thông qua hoạt động xúc tiến thương mại của các cơ quan, tổ chức (Điều 105) như:

+ Hoạt động của các cơ quan, tổ chức xúc tiến thương mại trong nước;

+ Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại nước ngoài;

+ Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài tại Việt Nam;

+ Hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, của cơ quan đại diện thương mại.

Hoạt động xúc tiến thương mại là một trong số ít các biện pháp hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp được WTO cho phép nhằm tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài. Để đạt chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu đã được khẳng định với mức tăng hàng năm là 10% tại các văn kiện của Đảng, Quốc hội, Luật đã quy định việc cấp, sử dụng, quản lý kinh phí này được quyết định phù hợp với pháp luật ngân sách nhà nước và chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu do Quốc hội quyết định.

  1. Giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương

Chương này quy định nguyên tắc tham gia giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương của cơ quan quản lý nhà nước. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước chỉ tham gia giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương liên quan đến quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm quyền và lợi ích của Việt Nam được bảo vệ kịp thời, hợp lý giữa các bên tham gia tranh chấp. Các tranh chấp về ngoại thương giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài do các thương nhân giải quyết theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Điều 108).

 Cụ thể, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO và trong các Điều ước quốc tế về thương mại song phương, đa phương khác là bắt buộc đối với tất cả các quốc gia thành viên, theo đó mỗi thành viên có khiếu nại, tranh chấp với thành viên khác buộc phải đưa tranh chấp ra giải quyết bằng cơ chế này. Quốc gia thành viên bị khiếu nại không có cơ hội lựa chọn nào khác là chấp nhận tham gia giải quyết tranh chấp theo các thủ tục của cơ chế này. 

Việt Nam đã là thành viên của WTO và của nhiều FTA song phương và đa phương nên có thể sử dụng cơ chế này cho các tranh chấp thương mại có thể có với các thành viên khác. Hiện tại, việc xem xét cơ chế giải quyết tranh chấp này cùng với hệ thống án lệ phong phú có ý nghĩa thực tiễn to lớn không chỉ trong việc hiểu chính xác các quy định của hiệp định thương mại mà còn góp phần bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam trong quá trình thực thi hiệp định thương mại.

Do vậy, Luật đã có những quy định nêu rõ trình tự, thủ tục cũng như trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc giải quyết tranh chấp trong trường hợp do Chính phủ nước ngoài khởi kiện và cả trường hợp do Chính phủ Việt Nam khởi kiện.

  1. Điều khoản thi hành

Chương này quy định về việc tổ chức thi hành và chuyển tiếp đối với hoạt động quản lý ngoại thương.

– Để không làm ảnh hưởng đến hoạt động của công tác quản lý nhà nước, đảm bảo hoạt động ngoại thương của thương nhân diễn ra bình thường, Luật quy định: các vụ việc phòng vệ thương mại đã được tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, điều tra trước khi Luật này có hiệu lực thi hành, được xem xét, xử lý theo các quy định tại các Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 về việc chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam và các văn bản quy định chi tiết các Pháp lệnh trên được tiếp tục thực hiện theo các quy định đó. Các vụ việc được xem xét, xử lý sau khi Luật này có hiệu lực thi hành thực hiện theo các quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành.

– Bên cạnh đó, Luật quy định bãi bỏ 03 Pháp lệnh về các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và biện pháp tự vệ).

– Đồng thời, Luật cũng bãi bỏ một số nội dung của Luật Thương mại số 36/2005/QH11, cụ thể: khoản 3 các điều 28, 29, 30 về việc giao Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thủ tục cấp giấy phép; quy định về hoạt động tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hóa; quy định về hoạt động chuyển khẩu hàng hóa. Điều 31 quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 33 quy định về Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hóa. Điều 242 quy định về quyền quá cảnh hàng hóa. Điều 243 quy định về tuyến đường quá cảnh. Điều 244 quy định về quá cảnh bằng đường hàng không. Điều 245 quy định về giám sát hàng hóa quá cảnh. Điều 246 quy định về thời gian quá cảnh. Điều 247 quy định về hàng hoá quá cảnh tiêu thụ tại Việt Nam./.

 

Tiêu Dao