Những nội dung cơ bản của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017

736
Đánh giá bài viết

Tại Kỳ họp thứ 2, Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua 15 luật, trong đó có Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an nhân dân và công tác đảm bảo an ninh, trật tự.

 

Cổng TTĐT Công an Quảng Bình xin giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

 

Ảnh minh họa.

 

Luật TGPL năm 2017 (sau đây viết gọn là Luật TGPL năm 2017), gồm 08 chương, 48 điều như sau:

  1. Những quy định chung (Chương I)

1.1. Về nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý

Kế thừa quy định tại Điều 4 Luật TGPL năm 2006, Điều 3 Luật TGPL năm 2017 giảm số lượng nguyên tắc từ 05 xuống còn 04 nguyên tắc, đồng thời, khái quát lại các nguyên tắc bảo đảm rõ ràng, cụ thể, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 cũng như các quy định của pháp luật có liên quan. Khoản 1 Điều này ghi nhận nguyên tắc tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL là một nguyên tắc quan trọng, cần thiết, xuyêt suốt của Luật TGPL năm 2017. Cùng đó, tại khoản 4 tiếp tục khẳng định tính chất miễn phí và sửa đổi từ không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL thành không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được TGPL nhằm làm rõ hơn việc miễn phí hoàn toàn (kể cả lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất) cho người được TGPL. Đây là một trong những nguyên tắc mang tính chất đặc trưng của hoạt động TGPL so với các dịch vụ pháp lý khác.

1.2. Quy định về chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý

Nội dung quy định này được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc tại Điều 6 Luật TGPL năm 2006, Điều 4 Luật TGPL năm 2017 tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. Việc thực hiện TGPL cho người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và một số nhóm người yếu thế khác trong xã hội là một loại hình dịch vụ sự nghiệp công, là chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này đã được ghi nhận trong các bộ luật, luật về tố tụng như: khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính; khoản 3 Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự quy định ”Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm TGPL cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”; khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị Trung tâm TGPL nhà nước cử người bào chữa cho những người thuộc diện được TGPL khi họ thuộc các trường hợp chỉ định người bào chữa (Bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi).

Cùng đó, khoản 4 kế thừa nội dung còn phù hợp tại khoản 2 Điều 6 Luật TGPL năm 2006 trong việc đề cập đến trách nhiệm của Nhà nước khi khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ công tác TGPL. Luật TGPL năm 2017 đã đưa ra những cơ chế để huy động cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện, có năng lực tham gia công tác TGPL nhằm tạo cơ sở pháp lý, khuyến khích mạnh mẽ nguồn lực xã hội tham gia công tác TGPL, giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân. Ngoài ra, Luật bổ sung việc ghi nhận, tôn vinh đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực cho hoạt động TGPL để tạo cơ chế khích lệ việc đóng góp nhiều hơn nữa, thúc đẩy hoạt động TGPL. Theo đó, Điều 4 Luật TGPL năm 2007 quy định: (1). TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. (2). Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được TGPL phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội. (3). Nhà nước có chính sách nâng cao chất lượng TGPL, thu hút các nguồn lực thực hiện TGPL. (4). Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động TGPL.

1.3. Về nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý

Luật TGPL năm 2017 quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, các nguồn hợp pháp khác. Đồng thời, đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, Luật TGPL năm 2017 quy định việc ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách nhà nước để hỗ trợ thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm mới quan trọng, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho người thuộc diện được TGPL được giúp đỡ pháp lý khi họ có các vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phục phần nào tình trạng bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Đồng thời, xác định đây là nội dung rất quan trọng, cần thiết phải quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL để bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững cho TGPL. Theo đó, Điều 5 Luật TGPL năm 2017 quy định: (1). Nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác. (2). Kinh phí ngân sách nhà nước được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đối với địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách hằng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. (3). Kinh phí cho hoạt động TGPL của tổ chức tự nguyện thực hiện do tổ chức đó tự bảo đảm.

1.4. Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động trợ giúp pháp lý

Trên cơ sở kế thừa quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động TGPL tại Điều 9 Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 sửa đổi, bổ sung bảo đảm cụ thể, bao quát hơn và tương thích với khoản 2 Điều 3 về nguyên tắc hoạt động TGPL và khoản 1 Điều 8 về quyền của người được TGPL, làm rõ hơn tính chất miễn phí của hoạt động này, tăng cường việc bảo đảm nguyên tắc hoạt động này bằng việc quy định là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động TGPL và có các chế tài như thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý…, theo đó, Điều 6 Luật TGPL năm 2017 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động TGPL, bao gồm: (1). Nghiêm cấm tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện TGPL có hành vi sau đây: a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL; phân biệt đối xử người được TGPL; b) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được TGPL; sách nhiễu người được TGPL; c) Tiết lộ thông tin về vụ việc TGPL, về người được TGPL, trừ trường hợp người được TGPL đồng ý bằng văn bản hoặc luật có quy định khác; d) Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL, trừ trường hợp quy định tại Luật này và quy định của pháp luật về tố tụng; đ) Lợi dụng hoạt động TGPL để trục lợi, xâm phạm quốc phòng, an ninh quốc gia, gây mất trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội; e) Xúi giục, kích động người được TGPL cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trái pháp luật. (2). Nghiêm cấm người được TGPL, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động TGPL có hành vi sau đây: a) Xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người thực hiện TGPL và uy tín của tổ chức thực hiện TGPL; b) Cố tình cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về vụ việc TGPL; c) Đe dọa, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động TGPL; gây rối, làm mất trật tự, vi phạm nghiêm trọng nội quy nơi thực hiện TGPL.

  1. Người được trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý (Chương II)

2.1. Về người được trợ giúp pháp lý

Trên cơ sở kế thừa quy định đối tượng được TGPL của Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 mở rộng diện người được TGPL (từ 06 diện người lên 14 diện người) để phù hợp với các chính sách đặc thù và điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, 02 đối tượng được kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng; 02 đối tượng được kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số “thường trú” thành “cư trú” tại các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn (cư trú sẽ rộng hơn thường trú vì cư trú bao gồm thường trú và tạm trú).

Bên cạnh đó, Luật TGPL năm 2017 đã bổ sung 02 nhóm là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (hiện nay đang thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự) và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này. Ngoài ra, Luật có quy định mới trong việc áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 nhóm người như tại khoản 7 Điều 7 Luật để cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý và các đối tượng khác để phù hợp với Luật Người cao tuổi năm 2010, Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011…Theo đó, Điều 7 Luật TGPL năm 2017 quy định người được TGPL, bao gồm: (1). Người có công với cách mạng. (2). Người thuộc hộ nghèo. (3). Trẻ em. (4). Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. (5). Người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. (6). Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo. (7). Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: a) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; b) Người nhiễm chất độc da cam; c) Người cao tuổi; d) Người khuyết tật; đ) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; e) Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; g) Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; h) Người nhiễm HIV. Đồng thời, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện khó khăn về tài chính của người được TGPL quy định tại khoản này phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội.

2.2. Về quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý

Cơ bản kế thừa các nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ của người được TGPL quy định tại Điều 11, Điều 12 của Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 quy định về quyền và nghĩa vụ của người được TGPL tại Điều 8, Điều 9 như sau:

Về quyền của người được TGPL, Điều 8 Luật TGPL năm 2017 quy định: (1). Được TGPL mà không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác. (2). Tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu TGPL. (3). Được thông tin về quyền được TGPL, trình tự, thủ tục TGPL khi đến tổ chức thực hiện TGPL và các cơ quan nhà nước có liên quan. (4). Yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc TGPL. (5). Lựa chọn một tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện TGPL tại địa phương trong danh sách được công bố; yêu cầu thay đổi người thực hiện TGPL khi người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này. (6). Thay đổi, rút yêu cầu TGPL. (7). Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. (8). Khiếu nại, tố cáo về TGPL theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Về nghĩa vụ của người được TGPL, Điều 9 Luật TGPL năm 2017 quy định: (1). Cung cấp giấy tờ chứng minh là người được TGPL. (2). Hợp tác, cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc TGPL và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu, chứng cứ đó. (3). Tôn trọng tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến vụ việc TGPL. (4). Không yêu cầu tổ chức thực hiện TGPL khác TGPL cho mình về cùng một vụ việc đang được một tổ chức thực hiện TGPL thụ lý, giải quyết. (5). Chấp hành pháp luật về TGPL và nội quy nơi thực hiện TGPL.

  1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (Chương III)

3.1. Về Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước

Kế thừa Luật TGPL năm 2006, tại Điều 11 Luật TGPL năm 2017 quy định Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có thể có chi nhánh và quy định về chi nhánh là: ”Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm TGPL nhà nước, được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nhà nước và chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL. Trung tâm TGPL nhà nước chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Chi nhánh. Căn cứ nhu cầu và điều kiện thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước”.

Quy định như vậy về Trung tâm TGPL dựa trên sự tính toán, cân nhắc các yếu tố phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của đất nước hiện nay nhằm bảo đảm tính đồng bộ trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và tiếp tục phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và có các giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay là phù hợp. Việc kế thừa tổ chức bộ máy, trụ sở của các Trung tâm hiện nay nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian, nguồn lực; đồng thời tiếp tục được sự quan tâm, ủng hộ của chính quyền địa phương đối với công tác TGPL.

3.2. Về  hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý

Đây là điều luật mới của Luật TGPL năm 2017 so với Luật TGPL năm 2006, việc ký hợp đồng với tổ chức tham gia TGPL nhằm tạo cơ chế để Nhà nước có thể lựa chọn những tổ chức có điều kiện tốt nhất tham gia TGPL; cụ thể hóa các công việc thực hiện, kinh phí chi trả, ràng buộc trách nhiệm cụ thể của tổ chức tham gia, quyền và nghĩa vụ của các bên, phù hợp theo cơ chế đặt hàng dịch vụ công của Nhà nước theo Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”. Bởi vì ở mỗi địa phương sẽ có nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL khác nhau, do đó, cơ quan quản lý TGPL sẽ căn cứ vào những yếu tố đó và các điều kiện của các tổ chức để xem xét, lựa chọn và ký hợp đồng thực hiện TGPL. Theo đó, Điều 14 Luật TGPL năm 2017 quy định về hợp đồng thực hiện TGPL, cụ thể như sau: (1). Hợp đồng thực hiện TGPL được ký kết giữa Sở Tư pháp với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và giữa Trung tâm TGPL nhà nước với luật sư, cộng tác viên TGPL về việc thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật về dân sự. (2). Căn cứ yêu cầu TGPL và thực tiễn tại địa phương, Sở Tư pháp lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với tổ chức có nguyện vọng và có đủ điều kiện sau đây: a) Có lĩnh vực đăng ký hoạt động phù hợp với lĩnh vực TGPL theo quy định của Luật này; b) Là tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức; c) Có cơ sở vật chất phù hợp với hoạt động TGPL; d) Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật. (3). Trung tâm TGPL nhà nước căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL tại địa phương lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với luật sư có đủ điều kiện sau đây: a) Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư; b) Không bị cấm hành nghề hoặc bị hạn chế hoạt động nghề nghiệp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; c) Không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; d) Được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà luật sư ký kết hợp đồng lao động. (4). Trung tâm TGPL nhà nước lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với cộng tác viên TGPL theo quy định tại Điều 24 của Luật này. (5). Tổ chức, cá nhân đã thực hiện hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này thì không được lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL trong thời gian ít nhất là 02 năm kể từ ngày có kết luận vi phạm. (6). Luật giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết về quy định hợp đồng thực hiện TGPL.

3.3. Về đăng ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý

Quy định về việc đăng ký tham gia TGPL của các tổ chức tự nguyện thực hiện TGPL bằng nguồn lực của mình trên cơ sở kế thừa Điều 17 Luật TGPL 2006. Luật TGPL năm 2017 quy định về việc đăng ký tham gia TGPL tại Điều 15, cụ thể như sau:

“1. Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tự nguyện thực hiện TGPL bằng nguồn lực của mình được đăng ký tham gia thực hiện TGPL như sau:

  1. a) Tổ chức hành nghề luật sư có đủ điều kiện quy định tại các điểm a, c và d khoản 2 Điều 14 của Luật này;
  2. b) Tổ chức tư vấn pháp luật có đủ điều kiện quy định tại các điểm a, c và d khoản 2 Điều 14 của Luật này và có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức.
  3. Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL đăng ký về phạm vi, hình thức, lĩnh vực, đối tượng TGPL với Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt động.
  4. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định trình tự, thủ tục đăng ký tham gia thực hiện TGPL”.

Về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về đăng ký tham gia thực hiện TGPL là “Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định trình tự, thủ tục đăng ký tham gia thực hiện TGPL”. (khoản 3 Điều 15). Đây là một điểm mới để bảo đảm các tổ chức tự nguyện thực hiện cũng phải có các điều kiện để được cung cấp dịch vụ, không phải vì là dịch vụ miễn phí cho người dân và được bảo đảm bằng nguồn lực của mình mà “buông lỏng” chất lượng.

  1. Người thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền, nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý (Chương IV)

4.1. Về người thực hiện trợ giúp pháp lý

Kế thừa những chủ thể thực hiện TGPL theo Luật TGPL năm 2006 (quy định tại Điều 20, Điều 23, Điều 24 Luật TGPL năm 2006), Điều 17 Luật TGPL năm 2017 quy định những chủ thể thực hiện TGPL bao gồm Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước hoặc luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL và tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên TGPL. Cùng đó, Luật TGPL năm 2017 quy định mang tính chọn lọc về điều kiện, tiêu chí, theo đó tư vấn viên pháp luật phải có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên, làm việc tại tổ chức tham gia TGPL mới đủ điều kiện thực hiện TGPL là người thực hiện TGPL. Việc quy định những người thực hiện TGPL như trên vừa kế thừa nhưng có những cơ chế khắc phục hạn chế hiện hành đảm bảo yêu cầu đáp ứng về chất lượng, đồng thời tiếp tục thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước về tinh giản tổ chức và bộ máy và xã hội hóa mạnh mẽ dịch vụ công.

Nhằm cung cấp thông tin cho người được TGPL biết và thực hiện quyền lựa chọn người thực hiện TGPL, khoản 2 Điều 19 quy định Sở Tư pháp công bố danh sách người thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp quy định như vậy, tạo ra cơ chế thông tin minh bạch trên toàn quốc để người dân có thể thực hiện quyền lựa chọn người thực hiện TGPL.

4.2. Về tập sự trợ giúp pháp lý

Đây là điều luật mới so với Luật TGPL năm 2006, quy định này để Trợ giúp viên pháp lý thực hành, áp dụng các kiến thức pháp luật và kỹ năng được đào tạo trong quá trình hành nghề. Các nội dung tập sự TGPL được thiết kế tương tự với tập sự luật sư với tư cách là một dịch vụ pháp lý tương đương. Theo đó, người thuộc trường hợp được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư thì được miễn, giảm thời gian tập sự TGPL. Về thời gian tập sự, phân công người hướng dẫn tập sự, nhiệm vụ của người tập sự được quy định tương tự như tập sự hành nghề luật sư theo Luật luật sư. Luật giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc tập sự,  kiểm tra kết quả tập sự TGPL và mẫu Giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự TGPL. Điều 20 Luật TGPL năm 2017 quy định về tập sự TGPL, cụ thể như sau:

“1. Viên chức của Trung tâm TGPL nhà nước có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư được tập sự TGPL tại Trung tâm TGPL nhà nước.

Thời gian tập sự TGPL là 12 tháng. Trung tâm TGPL nhà nước phân công trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn người tập sự TGPL và xác nhận việc tập sự TGPL. Trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm trợ giúp viên pháp lý. Tại cùng một thời điểm, 01 trợ giúp viên pháp lý không được hướng dẫn tập sự quá 02 người.

  1. Người tập sự TGPL được giúp trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL tại phiên tòa; không được ký văn bản tư vấn pháp luật.

Người tập sự TGPL được cùng với trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn gặp gỡ người được TGPL và đương sự khác trong vụ việc TGPL khi được người đó đồng ý; giúp trợ giúp viên pháp lý nghiên cứu hồ sơ vụ việc, thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ việc và các hoạt động nghề nghiệp khác. Trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn tập sự giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của người tập sự TGPL quy định tại khoản này.

  1. Người thuộc trường hợp được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư thì được miễn, giảm thời gian tập sự TGPL.
  2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc tập sự, kiểm tra kết quả tập sự TGPL và mẫu Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự TGPL”.

4.3. Về quy định bổ nhiệm, cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý

Đây là điều luật mới trên cơ sở kế thừa, cụ thể hóa các nội dung quy định về bổ nhiệm, cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý quy định trong Luật TGPL năm 2006, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật TGPL năm 2006, theo đó Điều 21 Luật TGPL năm 2017 quy định bổ nhiệm, cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cụ thể như sau: (1). Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước lập danh sách những người làm việc ở Trung tâm có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 19 của Luật này gửi Sở Tư pháp đề nghị bổ nhiệm, cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được danh sách người được đề nghị bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý, Giám đốc Sở Tư pháp lập hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. (2). Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý bao gồm: a) Văn bản của Giám đốc Sở Tư pháp đề nghị bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý; b) Lý lịch trích ngang của người được đề nghị bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý; c) 02 ảnh màu chân dung cỡ 2 cm x 3 cm; d) Bản sao có chứng thực Bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, Bằng thạc sĩ luật hoặc Bằng tiến sĩ luật; đ) Bản sao có chứng thực Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư hoặc Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự TGPL; trường hợp được miễn tập sự TGPL thì phải có bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được miễn tập sự TGPL; e) Giấy chứng nhận sức khỏe. (3). Người đã bị miễn nhiệm, thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý theo quy định tại các điểm a, c và e khoản 1 Điều 22 của Luật này được xem xét bổ nhiệm, cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý quy định tại Luật này và lý do miễn nhiệm, thu hồi thẻ không còn. (4). Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định bổ nhiệm và cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4.4. Về miễn nhiệm và thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý

Đây là điều luật mới so với Luật TGPL năm 2006, về nội dung quy định tại điều luật này, kế thừa, cụ thể hóa tinh thần quy định từ Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật TGPL năm 2006, trong đó, khoản 1 điều luật này quy định 06 trường hợp mà Trợ giúp viên pháp lý bị miễn nhiệm và thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý để bảo đảm các tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý và chất lượng hoạt động TGPL. Theo đó, Điều 22 Luật TGPL năm 2017 quy định về miễn nhiệm và thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cụ thể như sau:

“1. Trợ giúp viên pháp lý bị miễn nhiệm và thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Không còn đủ tiêu chuẩn làm trợ giúp viên pháp lý quy định tại Điều 19 của Luật này;
  2. b) Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc;
  3. c) Chuyển công tác khác hoặc thôi việc theo nguyện vọng;
  4. d) Không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan;

đ) Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo từ lần thứ 02 trở lên hoặc cách chức do thực hiện hành vi quy định tại điểm a, b, đ hoặc e khoản 1 Điều 6 của Luật này;

  1. e) Đang bị cấm hành nghề trong thời gian nhất định theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
  2. Giám đốc Sở Tư pháp lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định miễn nhiệm, thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý đối với người thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
  3. Hồ sơ đề nghị miễn nhiệm, thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý bao gồm:
  4. a) Văn bản của Giám đốc Sở Tư pháp đề nghị miễn nhiệm, thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý;
  5. b) Giấy tờ, tài liệu chứng minh trợ giúp viên pháp lý thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
  6. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định miễn nhiệm và thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý”.

4.5. Về cấp lại thẻ Trợ giúp viên pháp lý

Đây là điều luật mới so với Luật TGPL 2006, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn triển khai thi hành Luật TGPL năm 2006 trên thực tế và lường trước các trường hợp, sự việc như vậy có thể xảy ra. Theo đó, Luật TGPL năm 2017 quy định về cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý tại Điều 23, cụ thể như sau: “1. Người đã được cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý được cấp lại thẻ trong trường hợp bị mất hoặc bị hư hỏng.  2. Người đề nghị cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý gửi đơn đề nghị đến Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước. Sau khi nhận được đơn của người đề nghị cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý, Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước lập hồ sơ gửi Giám đốc Sở Tư pháp. 3. Hồ sơ đề nghị cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý bao gồm: a) Đơn đề nghị cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý; b) 02 ảnh màu chân dung cỡ 2 cm x 3 cm; c) Thẻ trợ giúp viên pháp lý bị hư hỏng hoặc xác nhận của Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước trong trường hợp thẻ bị mất. 4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Giám đốc Sở Tư pháp trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý. 5. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định cấp lại thẻ trợ giúp viên pháp lý”.

  1. Phạm vi, lĩnh vực, hình thức và hoạt động trợ giúp pháp lý (Chương V)

Phạm vi thực hiện TGPL, về cơ bản kế thừa nội dung Điều 26 Luật TGPL năm 2006 và xây dựng bảo đảm phù hợp với việc sửa đổi quy định về chuyển vụ việc TGPL. Luật TGPL năm 2006 chỉ quy định về thủ tục chuyển vụ việc TGPL tại Điều 37 và quy định tại điểm c khoản 1 Điều 26 đối với trường hợp Trung tâm TGPL thực hiện vụ việc TGPL do tổ chức thực hiện TGPL khác chuyển đến mà không quy định trong trường hợp nào thì chuyển vụ việc TGPL dẫn đến quá trình triển khai trên thực tiễn còn vướng mắc, bất cập. Để kịp thời đáp ứng yêu cầu TGPL của người dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, Luật TGPL năm 2017 quy định về phạm vi thực hiện TGPL tại Điều 26 và việc chuyển yêu cầu TGPL tại Điều 35, cụ thể như sau:

Về phạm vi thực hiện TGPL, Điều 26 quy định: (1). Trung tâm TGPL nhà nước thực hiện TGPL thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người được TGPL đang cư trú tại địa phương; b) Vụ việc TGPL xảy ra tại địa phương; c) Vụ việc TGPL do cơ quan có thẩm quyền về TGPL ở Trung ương yêu cầu. (2). Tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL thực hiện TGPL trong phạm vi hợp đồng. (3). Tổ chức đăng ký tham gia TGPL thực hiện TGPL trong phạm vi đăng ký”.

Về chuyển yêu cầu TGPL, Điều 35 quy định: (1). Trường hợp yêu cầu TGPL không đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 26 của Luật này, Trung tâm TGPL nhà nước chuyển yêu cầu TGPL đến Trung tâm TGPL nhà nước có thẩm quyền và thông báo cho người có yêu cầu biết. (2) Trường hợp không đủ nguồn lực thực hiện TGPL, tổ chức tham gia TGPL chuyển yêu cầu TGPL đến Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương và thông báo cho người có yêu cầu biết.

5.2. Về lĩnh vực, hình thức trợ giúp pháp lý

Về lĩnh vực TGPL, đây là quy định được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa nội dung quy định tại Điều 5 Luật TGPL năm 2006 về vụ việc TGPL là: “Vụ việc TGPL phải liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại”. Do bản chất của hoạt động TGPL là nhằm hỗ trợ các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế nhất trong xã hội gặp khó khăn về tài chính và có vướng mắc pháp luật mà không có tiền thuê  người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, do đó, khoản 1 Điều 27 Luật TGPL năm 2017 quy định: “TGPL được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại”.

Về hình thức TGPL: Nhằm khắc phục tình trạng thực hiện TGPL dàn trải trong hoạt động TGPL, kế thừa có chọn lọc quy định của Luật TGPL năm 2006, khoản 2 Điều 27 Luật TGPL năm 2017 đã bỏ hình thức TGPL khác quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật TGPL năm 2006 và thay đổi thứ tự để khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động TGPL là tham gia tố tụng. Theo đó, các hình thức TGPL được xác định cụ thể trong Luật TGPL năm 2017 gồm 03 hình thức là tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng để bảo đảm bản chất của hoạt động TGPL là giúp đỡ về mặt pháp lý cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đối tượng chính sách khác khi họ gặp phải vướng mắc, tranh chấp pháp luật.

5.3. Về tham gia tố tụng

Luật TGPL năm 2017 quy định về hình thức tham gia tố tụng trên cơ sở kế thừa các nội dung còn phù hợp tại Điều 29 và Điều 39 Luật TGPL năm 2006. Theo đó, Điều 31 quy định về tham gia tố tụng như sau:

“1. Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện TGPL tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL theo quy định của Luật này và pháp luật về tố tụng.

  1. Khi người được TGPL yêu cầu cử người thực hiện TGPL tham gia tố tụng, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ việc, tổ chức thực hiện TGPL có trách nhiệm cử người thực hiện TGPL.

Trường hợp người được TGPL là người bị bắt, người bị tạm giữ yêu cầu cử người thực hiện TGPL, trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm thụ lý, tổ chức thực hiện TGPL có trách nhiệm cử người thực hiện TGPL.

  1. Trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước tại địa phương. Ngay sau khi nhận được thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Trung tâm TGPL nhà nước có trách nhiệm thụ lý theo quy định tại khoản 4 Điều 30 của Luật này và cử người thực hiện TGPL tham gia tố tụng.
  2. Việc cử người tham gia tố tụng phải được lập thành văn bản và gửi cho người được TGPL, cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan”.

Tại khoản 1 Điều 31 Luật TGPL năm 2017 quy định hoạt động tham gia tố tụng theo hướng kế thừa Luật TGPL năm 2006 và dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật tố tụng, bởi vì hiện nay, tư cách và trình tự, thủ tục tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL (Trợ giúp viên pháp lý và luật sư thực hiện TGPL) đã được ghi nhận đầy đủ trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (từ Điều 72 đến Điều 84), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Điều 75 và Điều 76), Luật Tố tụng hành chính 2015 (Điều 61). Cùng đó, tại khoản 3 Điều này quy định về thời hạn cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo người bị hại là người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng) có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm TGPL tại địa phương để đề nghị cử người thực hiện TGPL tham gia tố tụng, người thực hiện TGPL kịp thời tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, của bị can, bị cáo, người bị hại.

5.4. Tư vấn pháp luật

Luật TGPL năm 2017 quy định về hình thức tư vấn pháp luật để khắc phục bất cập về hiệu quả hoạt động tư vấn pháp luật trong TGPL (tỷ lệ vụ việc được thực hiện ở trụ sở còn hạn chế, chủ yếu các vụ việc được thực hiện thông qua các đợt TGPL lưu động, chưa bảo đảm đúng bản chất của hoạt động TGPL là giúp người được TGPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vướng mắc, tranh chấp pháp luật). Theo đó, Điều 32 quy định về tư vấn pháp luật như sau: (1). Người thực hiện TGPL tư vấn pháp luật cho người được TGPL bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc. (2). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung, người thực hiện TGPL có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời bằng văn bản cho người được TGPL; đối với vụ việc phức tạp hoặc cần có thời gian để xác minh thì có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người được TGPL. Trường hợp yêu cầu TGPL là vướng mắc pháp luật đơn giản thì người tiếp nhận hướng dẫn, giải đáp, cung cấp thông tin pháp luật ngay cho người được TGPL.

5.5. Không tiếp tục thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý

Quy định về các trường hợp không tiếp tục thực hiện vụ việc liên quan đến TGPL trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 45 Luật TGPL năm 2006 (quy định các trường hợp không được tiếp tục thực hiện hoặc phải từ chối thực hiện TGPL được chuyển đến Điều 25 của chương quy định về người thực hiện TGPL, quyền, nghĩa vụ của người thực hiện TGPL). Theo đó, nội dung không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL được quy định tại Điều 37 Luật TGPL năm 2017. Cụ thể như sau:

“1. Vụ việc TGPL không được tiếp tục thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Trường hợp phải từ chối theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật này;
  2. b) Người được TGPL thực hiện một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 2 Điều 6 của Luật này;
  3. c) Người được TGPL rút yêu cầu TGPL.
  4. Trường hợp không tiếp tục thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL hoặc người thực hiện TGPL phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người được TGPL.
  5. Trường hợp vụ việc TGPL đang được thực hiện mà người được TGPL không còn đáp ứng quy định tại Điều 7 của Luật này thì vụ việc được tiếp tục thực hiện cho đến khi kết thúc”.
  6. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với hoạt động trợ giúp pháp lý (Chương VI)

6.1. Về trách nhiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý

Đây là điều luật mới quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về TGPL của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nội dung này được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc quy định tại các Điều 46, Điều 47 Luật TGPL năm 2006. Mục đích nhằm phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan trong việc quản lý nhà nước về TGPL, theo đó, Điều 40 Luật TGPL năm 2017 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về TGPL như sau: (1). Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TGPL. (2). Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về TGPL và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về TGPL; b) Xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển TGPL và tổ chức triển khai thực hiện; c) Ban hành các quy định hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, mẫu giấy tờ trong hoạt động TGPL; tiêu chí xác định vụ việc TGPL phức tạp, điển hình; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL; d) Hướng dẫn, tổ chức và theo dõi việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL; đ) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho người thực hiện TGPL; e) Tổ chức công tác truyền thông về TGPL và việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL; g) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động TGPL; khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm trong hoạt động TGPL; h) Tiếp nhận hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân cho công tác TGPL; i) Thực hiện hợp tác quốc tế về TGPL. (3). Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện TGPL. (4). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý nhà nước về TGPL tại địa phương; bảo đảm các điều kiện làm việc cho Trung tâm TGPL nhà nước.

6.2. Trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng

Đây là điều luật mới, quy định về trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến hoạt động TGPL trong tố tụng (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) trong phạm vi, quyền hạn của mình phối hợp, tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng các quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, theo đó, Điều 41 quy định: (1). Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Luật này trong hệ thống các cơ quan trực thuộc. (2). Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

6.3. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan

Để có cơ chế bảo đảm quyền của người được TGPL được thông tin về quyền được TGPL khi đến các cơ quan nhà nước có liên quan, đây là cơ chế phối hợp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận TGPL cho người được TGPL khi có nhu cầu, giúp họ biết được quyền được TGPL của mình và các thông tin về tổ chức, người thực hiện TGPL để sử dụng dịch vụ TGPL. Điều 42 Luật TGPL năm 2017 quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan như sau: “Trong quá trình xử lý, giải quyết vụ việc liên quan đến công dân, nếu công dân thuộc diện người được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL”.

6.4. Về trách nhiệm của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (Điều 43); trách nhiệm của tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật (Điều 44)

Trách nhiệm của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, đây là những điều mới, quy định về trách nhiệm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam với tư cách là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của đội ngũ luật sư trên toàn quốc, Đoàn luật sư với tư cách là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của đội ngũ luật sư trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đồng thời tạo cơ chế phối hợp với cơ quan quản lý TGPL và bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL do luật sư thực hiện. Theo đó, Điều 43 Luật TGPL năm 2017 quy định: (1). Liên đoàn Luật sư Việt Nam có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của tổ chức hành nghề luật sư, luật sư theo quy định của Luật này. (2). Đoàn luật sư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm phối hợp với Sở Tư pháp trong quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của tổ chức hành nghề luật sư, luật sư theo quy định của Luật này.

– Về trách nhiệm của tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật, Điều 44 quy định: “Tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về TGPL trong quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của tổ chức tư vấn pháp luật, tư vấn viên pháp luật theo quy định của Luật này”.

  1. Điều khoản thi hành (Chương VIII)

Về hiệu lực thi hành, Điều 47 Luật quy định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/ 2018; Luật TGPL số 69/2006/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Về quy định chuyển tiếp, Điều 48 Luật quy định: (1). Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, người đã được bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý theo quy định của Luật TGPL số 69/2006/QH11 được tiếp tục hoạt động theo quy định của Luật này; sau 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, người được bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý không có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư thì bị thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý. (2). Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, tổ chức tham gia TGPL, người tham gia TGPL theo Luật TGPL số 69/2006/QH11 phải đáp ứng yêu cầu của Luật này; trường hợp không đáp ứng yêu cầu của Luật này thì chấm dứt tham gia TGPL và chuyển hồ sơ vụ việc đang thực hiện cho Trung tâm TGPL nhà nước nơi đăng ký tham gia để tiếp tục thực hiện. (3). Vụ việc TGPL đang được thực hiện theo Luật TGPL số 69/2006/QH11 nhưng đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa kết thúc thì tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật TGPL số 69/2006/QH11 cho đến khi kết thúc vụ việc. (4). Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát các Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước đã được thành lập tại địa phương và căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL và hiệu quả hoạt động báo cáo Bộ Tư pháp để thống nhất việc duy trì, sáp nhập hoặc giải thể Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước”./.

 

Tiêu Dao