Tìm hiểu một số vấn đề về phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

145
Đánh giá bài viết

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Một trong những phong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Đảng ta yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải học tập và làm theo, đó là phong cách quần chúng, gần dân, sát dân, lắng nghe dân, yêu thương dân hết mực, làm việc gì cũng phải nghĩ đến lợi ích của nhân dân, lợi ích của đất nước.

Phong cách quần chúng của người cán bộ là biết hòa mình vào cuộc sống cần lao của người lao động, biết chia sẻ với niềm vui của bà con, băn khoăn với trăn trở của họ và nhất là cùng tìm cách tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn để giúp họ vươn lên trong cuộc sống, lao động sản xuất. Tuy nhiên, cần hiểu “Phong cách quần chúng” không có nghĩa là “Theo đuôi” quần chúng, “Vỗ về” quần chúng, mà điều quan trọng là phải quan tâm giáo dục, vận động, tuyên truyền, định hướng cho nhân dân biết sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; đồng thời tổ chức chăm lo cho nhân dân có cuộc sống ngày càng hạnh phúc.

Bác Hồ thăm bà con các dân tộc xã Hùng Sơn (Đại Từ, Thái Nguyên) nhân vụ mùa năm 1954

Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như truyền thống của dân tộc. Bởi vì, quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ông cha ta trước đây đã từng tổng kết về sức mạnh của nhân dân và sự đoàn kết toàn dân tộc “Đẩy thuyền là dân thì lật thuyền cũng là dân”; vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức thì giặc phải thua…; “Chúng chí thành thành”- Điều đó có nghĩa là ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước chắc chắn nhất. Tư tưởng đó là sự tổng kết về sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, thực chất đó là chủ trương dựa vào dân, đoàn kết toàn dân tộc để đánh giặc, giữ nước…

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống thường ngày, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân, Người cho rằng “Trên bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” và “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia – 2002).

Phong cách quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bằng tác phong luôn sâu sát quần chúng nhân dân, lắng nghe, tìm hiểu nguyện vọng của nhân dân và tìm cách đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sữa chữa khuyết điểm của mình. Người luôn tâm niệm “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chính sự ham muốn tột bậc đó đã tạo nên tình yêu nước, thương dân không bờ bến. Suốt cuộc đời Người làm việc không giây phút nào nghĩ ngơi cũng là vì sự ham muốn tột bậc đó. Chính nhờ sự “Ham muốn tột bậc” đó là một điểm tựa vững chắc mà Người có được một nghị lực phi thường để chiến thắng mọi khó khăn gian khổ, mọi cám dỗ tầm thường, chiến thắng cả bệnh tật để làm việc không ngừng cho dân, cho nước.

Bác Hồ cùng nhân dân tát nước chống hạn ở cánh đồng Quang Tó, xã Đại Thanh, tỉnh Hà Tây năm 1958 (Nay là TP. Hà Nội)

Về mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh cho rằng “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia – 2002). Tuy nhiên, trong mối quan hệ đó Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “Dân là chủ”, còn cán bộ là công bộc của nhân dân. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải nhiệt tình hăng hái, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu thiết thực, chính đáng và hợp pháp mà nhân dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ nhân dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân; việc gì lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì phải hết sức tránh. Đó là trách nhiệm của tất cả đảng viên, cán bộ của Đảng và Nhà nước, làm được như vậy mới xứng đáng là công bộc của nhân dân. Nhưng cũng cần vận động thuyết phục nhân dân; phải hiểu và làm cho dân hiểu: Lợi ích tạm thời và lợi ích riêng, phải phục tòng lợi ích lâu dài và lợi ích chung. Lợi ích địa phương phải phục tòng lợi ích toàn quốc, toàn dân tộc. Muốn làm được như vậy, thì mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể cần phải: Luôn luôn gần gũi nhân dân; ra sức nghe ngóng và hiểu biết nhân dân; học hỏi nhân dân; lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng và phải thể hiện tinh thần phụ trách trước nhân dân. Người cho rằng “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng… Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì ta phải… bỏ đi hoặc sữa lại”. Người nhấn mạnh: Nước ta là nước dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân; chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra; đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên; nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

Chính tư tưởng, đạo đức của nhân cách bên trong con người Hồ Chí Minh đã thể hiện, bộc lộ ra bên ngoài bằng phong cách quần chúng ở Người. Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định tư tưởng, tấm gương đạo đức suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân.

Ngay từ khi còn hoạt động cách mạng lúc bí mật cho đến khi đã trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn gần gũi nhân dân. Dù bận nhiều việc lớn của Đảng và Nhà nước, nhưng Người vẫn thường xuyên đi thăm các cơ sở, đến các đơn vị vũ trang nhân dân thuộc đủ các binh chủng, quân chủng để thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ. Bác đã có mặt ở các công trường, xí nghiệp, nông trường, hợp tác xã, bệnh viện, trường học, nhà trẻ, lớp mẫu giáo và nhiều nơi ở của công nhân, cán bộ bình thường để nắm tình hình và động viên, khuyến khích mọi người cố gắng làm tốt các công việc được giao. Dấu chân của Người để lại ở nhiều địa phương, từ trung du đến đồng bằng, từ miền núi đến miền duyên hải và các đảo xa rất sâu đậm; mỗi năm có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở để gặp gỡ nhân dân, đó là một kỷ lục khó ai có thể vượt qua, nhất là đối với một lãnh tụ, một chủ tịch nước.

Khi về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng), thấy tỉnh tổ chức đón tiếp, Bác nói: Tôi về thăm nhà mà sao phải đón tôi? Lần Người về Hải Hưng tham gia chống hạn với nông dân. Nghe tin, các đồng chí cán bộ tỉnh tổ chức đón Người long trọng. Người không hài lòng, phê bình ngay: Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón tiếp. Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự. Người đi rất nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, xắn quần, xắn tay áo xuống cùng đào đất với bà con.

Tác phong quần chúng bình dị ấy như có sức hút kỳ lạ, làm cho quần chúng đến với Người không chút e ngại, cũng bình dị, tự nhiên như họ vẫn sống hàng ngày. Tác phong ấy làm cho lãnh tụ và quần chúng dễ dàng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Nhờ vậy, mọi người có thể nói hết những suy nghĩ, trăn trở của mình, còn Người thì lắng nghe để có thể hiểu được nhịp đập của cuộc sống xung quanh.

Đối với đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Người cho rằng “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia – 2002).

Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ của nhân dân. Nhân dân Việt Nam từ người già đến trẻ, thuộc mọi tầng lớp, dân tộc dù ở trong nước hay đang sinh sống tại nước ngoài thuộc mọi thế hệ đều gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng hai tiếng Bác Hồ. Với phong cách quần chúng, tác phong gần dân, Người đến với mọi người một cách rất tự nhiên và bình dị. Tác phong đó làm cho lãnh tụ và quần chúng dễ dàng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc, tạo nên sức hút kỳ lạ. Vì vậy, mọi người có thể nói hết những trăn trở, suy nghĩ của mình, còn với Người qua đó có thể hiểu được thực tế cuộc sống của nhân dân để từ đó đưa ra những chủ trương đúng đắn hợp với lòng dân, tạo nên sự phát triển của đất nước.

Thượng tá, TS Hoàng Giang Nam   

Phó Trưởng phòng Công tác Chính trị