Tìm hiểu nội dung Điều 128 BLTTHS năm 2015 về “Kê biên tài sản”

4037
Đánh giá bài viết

 Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm đảm bảo thi hành phần dân sự trong bản án hình sự.

 

Ảnh minh họa.

 

– Áp dụng biện pháp kê biên tài sản nhằm ngăn chặn sự tẩu tán tài sản của người phạm tội đảm bảo hiệu lực thi hành của bản án, ngăn ngừa và phòng chống tội phạm hiệu quả cho nên việc áp dụng cần nhanh chóng và kịp thời. Như vậy, đối tượng áp dụng biện pháp kê biên tài sản là các bị can, bị cáo trong vụ án. Về căn cứ áp dụng, chỉ áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối với bị can, bị cáo phạm tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc BLHS quy định có thể bị tịch thu tài sản như một số tội trong nhóm tội phạm về ma túy, nhóm tội phạm về chức vụ….hoặc để đảm bảo bồi thường thiệt hại trong các vụ án có bị hại là người bị thiệt hại về tài sản; tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, có nguyên đơn dân sự.

– Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Hội  đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh kê biên tài sản. Lệnh kê biên của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được thông báo ngay cho Viện kiếm sát cùng cấp trước khi thi hành.

–  Về đối tượng tài sản bị kê biên: Cơ quan có thẩm quyền chỉ được kê biên tài sản tương đương với mức có thể bị phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc tịch thi, việc kê biên tài sản phải có lệnh của người có thẩm quyền trong đó xác định rõ tài sản kê biên. Để đảm bảo việc người phạm tội không tẩu tán tài sản, cơ quan có thẩm quyền vừa phải nhanh chóng áp dụng biện pháp kê biên tài sản, vừa phải ước lượng được mức phạt tiền, bồi thường thiệt hại…được áp dụng trong tương lai là điều khó khăn, nhất là ở giai đoạn điều tra. Thực tế, có tình trạng người phạm tội có tài sản gì sẽ kê biên tài sản đó, kê biên vượt mức mà họ phải gánh chịu khi Tòa án tuyên. Có ý kiến cho rằng cách kê biên như vậy không gây bất lợi cho người phạm tội vì khi vụ án được đưa ra xét xử, họ vẫn được trả lại phần tài sản còn thừa (nếu có). Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cách xử lý như trên lại có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến giá trị của nhiều loại tài sản như bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu hay tài sản kim loại quý…sẽ được xử lý phù hợp trước các biến động của thị trường nếu không thuộc phạm vi bị kê biên. Bởi lẽ, tài sản kê biên được giao cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp bảo quản và họ được phép sử dụng, khai thác các lợi ích do tài sản mang lại nhưng không được tiêu dùng, chuyển nhượng, cất giấu, đánh tráo, hủy hoại tài sản.

–  Về thủ tục tiến hành kê biên, việc tiến hành kê biên tài sản phải được thực hiện đúng quy định tại điều luật nhằm bảo đảm kê biên chính xác, đúng đối tượng, đúng phạm vi xác định trong quyết định kê biên. Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản kê biên. Biên bản được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này, đọc cho những người có mặt nghe, bao gồm: bị can, bị cáo hoặc người đủ 18 tuổi trở lên trong gia đình hoặc người đại diện của bị can, bị cáo; đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên; người chứng kiến, những người này phải cùng ký tên vào biên bản. Họ cũng có quyền có ý kiến, có quyền khiếu nại và được thể hiện ngay trong biên bản kê biên có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê biên. Biên bản kê biên được lập thành bốn bản, trong đó một bản được giao ngay cho người bị kê biên sau khi kê biên xong, một bản giao ngay cho chính quyền xã, phường, thị trân nơi có tài sản bị kê biên, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.

 

Điều 128. Kê biên tài sản

1. Kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại.

2. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh kê biên tài sản. Lệnh kê biên của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

3. Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp hoặc người thân thích của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

4. Khi tiến hành kê biên tài sản phải có mặt những người:

a) Bị can, bị cáo hoặc người đủ 18 tuổi trở lên trong gia đình hoặc người đại diện của bị can, bị cáo;

b) Đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên;

c) Người chứng kiến.

Người tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị kê biên. Biên bản được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này, đọc cho những người có mặt nghe và cùng ký tên. Ý kiến, khiếu nại của những người quy định tại điểm a khoản này liên quan đến việc kê biên được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê biên.

Biên bản kê biên được lập thành bốn bản, trong đó một bản được giao ngay cho người được quy định tại điểm a khoản này sau khi kê biên xong, một bản giao ngay cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có tài sản bị kê biên, một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.

 

 

Thanh Đạt