Tìm hiểu nội dung Điều 220 BLHS năm 2015 về “ Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng”

5254
Đánh giá bài viết

BLHS năm 2015 đã được bổ sung tội danh mới – Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là tội phạm đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Đó là người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền nhất định trong quản lí, sử dụng vốn đầu tư công.

 

Ảnh minh họa.

 

Hành vi phạm tội xâm phạm chế độ quản lí nhà nước đối với việc quản lí và sử dụng vốn đầu tư công.

Đối tượng tác động của tội phạm là vốn đầu tư công. Vốn đầu tư công gồm: “vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư

Người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm quy định của nhà nước về quản lí, sử dụng vốn đầu tư công. Hành vi này có thể là một trong các hành vi sau:

– Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư. Ví dụ: Người phạm tội có hành vi quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của địa phương hoặc không đúng thẩm quyền hoặc không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật;

– Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư. Ví dụ: người phạm tội khi lập chủ trương đầu tư đã có hành vi cung cấp thông tin sai lệch trong hồ sơ, tài liệu liên quan đến chủ trương đầu tư dự án;

– Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án. Ví dụ: đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư hoặc không đúng với chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt hoặc quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái với quy định của pháp luật về đầu tư công;

– Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án. Ví dụ: thông đồng với tổ chức tư vấn dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của Quốc gia.

Hành vi vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc tuy gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của BLHS – Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.

Nghiên cứu Điều 220 BLHS năm 2015 cho thấy quy định về tội danh này còn có sai sót về kĩ thuật. Tội danh (tên tội) được quy định tại Điều 220 thể hiện đây là tội phạm có cấu thành vật chất vì có cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng”. Với các quy định như vậy, thì về kĩ thuật lập pháp, khi xây dựng các dấu hiệu của CTTP cơ bản, đáng lẽ nhà làm luật phải thể hiện được đây là tội phạm có CTTP vật chất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của CTTP – Đó là “hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu tên tội với dấu hiệu định tội thì ta sẽ nhận thấy có sự mâu thuẫn. Nhà làm luật quy định về dấu hiệu định tội của tội này đã đưa ra hai trường hợp: a) gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc b) tuy gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Điều này có nghĩa chỉ có trường hợp gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng mới được xác định là CTTP vật chất vì có gây ra hậu quả nghiêm trọng là “gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”. Trường hợp còn lại thì không phải là CTTP vật chất; trường hợp này không thể coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” như tên tội đã mô tả, vì hậu quả ở dưới “ngưỡng” 100.000.000 đồng và trường hợp này sở dĩ bị coi là tội phạm bởi vì có thỏa mãn kèm theo đặc điểm xấu về nhân thân – “đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Ví dụ: người phạm tội tuy gây thiệt hại tài sản là 5 triệu đồng nhưng trước đó đã bị xử lý kỉ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì vẫn bị coi là phạm tội này chứ không phải là người đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, với việc gây ra thiệt hại là 5 triệu đồng thì không thể coi là thiệt hại nghiêm trọng được. Như vậy, có thể thấy là quy định như trên của nhà làm luật đã dẫn đến sự mâu thuẫn giữa tội danh với dấu hiệu pháp lí của CTTP cơ bản. Điều này thể hiện sự chưa chuẩn xác về khoa học của Điều 220.

Lỗi của người phạm tội là cố ý.

Điều 220 BLHS năm 2015 quy định các khung hình phạt sau:

– Khung 1: Người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

– Khung 2: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:

+ Vì vụ lợi;

+ Có tổ chức;

+ Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

+ Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

– Khung 3: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm  nếu gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

Điều 220. Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;

b) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;

c) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;

d) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.

2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

a) Vì vụ lợi;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

 

Quang Thắng