Tìm hiểu nội dung Điều 224 BLHS năm 2015 về “Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”

14813
Đánh giá bài viết

Để hoạt động đầu tư các công trình xây dựng ở nước ta được lành mạnh, góp phần lập lại trật tự, kỉ cương trong lĩnh vực này, nhà làm luật nước ta đã quy định tội danh mới trong BLHS năm 2015 – tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng.

 

Ảnh minh họa.

 

Đây là tội phạm đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Chủ thể của tội phạm phải là người có chức vụ, quyền hạn.

Hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ quản lí nhà nước về đầu tư các công trình xây dựng.

Hành vi khách quan của tội phạm có thể là một trong các dạng hành vi sau:

– Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng. Ví dụ: người phạm tội là đại diện theo pháp luật đối với cơ quan nơi mình công tác (người quyết định đầu tư) đã phê duyệt dự án và quyết định đầu tư xây dựng trong khi biết rõ dự án không đáp ứng mục tiêu và hiệu quả.

– Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng. Ví dụ: Người phạm tội biết rõ các giải pháp thiết kế công trình không phù hợp với công năng sử dụng của công trình, mức độ an toàn của công trình nhưng vẫn phê duyệt thiết kế.

– Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện, năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng. Ví dụ: người phạm tội chọn nhà thầu thi công không đủ năng lực và thiếu kinh nghiệm dẫn đến công trình kém chất lượng, nguy cơ cháy, nổ cao.

– Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình. Ví dụ: người phạm tội (là đại diện nhà thầu giám sát thi công) đã thông đồng với nhà thầu thi công xây dựng để xây dựng công trình được thi công sai với thiết kế ban đầu dẫn đến công trình có nguy cơ mất an toàn cao và kém chất lượng.

Người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi kể trên. Trên thực tế, người phạm tội có thể thực hiện một hành vi hoặc nhiều hành vi trong các hành vi kể trên.

Hành vi đã thực hiện bị coi là tội phạm nếu gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng nếu dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

BLHS năm 2015 khi quy định về tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224) cũng có sai sót tương tự như khi quy định về Điều 220, Điều 221, Điều 222, Điều 223. Tội danh quy định tại Điều 224 thể hiện đây là tội phạm có cấu thành vật chất vì có cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, dấu hiệu định tội của tội phạm lại được quy định thiếu thống nhất với tên tội.

Lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện.

Điều 224 BLHS năm 2015 quy định các khung hình phạt sau:

– Khung 1: Người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

– Khung 2: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:

+ Vì vụ lợi;

+ Có tổ chức;

+ Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

+ Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

– Khung 3: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm nếu phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

Điều 224. Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;

b) Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;

c) Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;

d) Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:

a) Vì vụ lợi;

b) Có tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

 

Quang Thắng