Tìm hiểu nội dung Điều 26 BLTTHS về “Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”

4273
Đánh giá bài viết

BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, đưa vấn đề tranh tụng trong xét xử trở thành một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự.

 

Ảnh minh họa.

 

+ Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, Hiến pháp của nước ta năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc, cụ thể: “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” (khoản 5 Điều 103).

+ Nội dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo theo BLTTHS năm 2015 bao gồm các nội dung sau:

– Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

– Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của BLTTHS năm 2015, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do BLTTHS năm 2015 quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

– Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

– Bản án quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

+ Trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng khi xét xử được đảm bảo, BLTTHS năm 2015, đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa nguyên tắc này, cụ thể như sau:

Thứ nhất, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa.

Thứ hai, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự. Để đảm bảo tranh tụng dân chủ, cũng như quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, BLTTHS bổ sung quy định cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (Điều 73);

Thứ ba, quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để đảm bảo việc buộc tội tranh tụng tại phiên tòa. Bên cạnh đó, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, nhưng đối với kiểm sát viên BLTTHS năm 2003 chỉ cho phép tối đa 02 kiểm sát viên tham gia. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều Kiểm sát viên (khoản 1 Điều 289 BLTTHS năm 2015);

Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để đảm bảo việc tranh tụng trong xét xử. Để hoạt động xét xử thực sự là trọng tâm, Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Đặc biệt, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo việc tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong phần xét hỏi, BLTTHS năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa thành “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa”.

 

Điều 26. Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

 

 

Tiêu Dao