Tìm hiểu nội dung Điều 279 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về “Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn”

873
Đánh giá bài viết

So với Điều 218 BLHS năm 1999 thì Điều 279 BLHS năm 2015 có bổ sung các tình tiết định khung hình phạt thì không nặng hơn cũng không nhẹ hơn, cụ thể được quy định ngay trong điều luật.

 

 

Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường không.

Đối tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn, mà chủ yếu là tàu bay, ngoài ra còn có các phương tiện khác như sân bay, nhà ga và trang bị, thiết bị, công trình mặt đất cần thiết khác được sử dụng cho tàu bay đi và đến, thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng không.

Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn là hành vi của người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị đảm bảo hoạt động bay rõ ràng không đảm bảo an toàn kỹ thuật.

Hành vi khách quan của tội này là quyết định đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không rõ ràng không đảm bảo an toàn.

Hành vi cho đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường thủy bằng nhiều hình thức khác nhau như: Bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng những hình thức khác cho đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không đảm bảo an toàn.

Cũng như đối với hành vi cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy, không nhất thiết phải có mối quan giữa xin và cho, mà có thể không ai xin những vẫn có hành vi “cho”. Cho đưa vào sử dụng dụng phương tiện giao thông đường không là hành vi quyết định việc đưa vào sở dụng phương tiện giao thông đường không.

Nếu là người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động phương tiện giao thông đường không thì hành vi khách quan của họ là hành vi điều động phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn.

Nếu là người chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng kỹ thuật phương tiện giao thông đường không, thì hành vi khách quan của họ là chứng nhận không đúng về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường không.

Khác với các hành vi đưa vào sở dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt hoặc đường thủy không đảm bảo an toàn, hậu quả do hành vi đưa vào sử dụng  phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi cho đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn là tội phạm đã hoàn thành.

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật về phương tiện giao thông đường không mới là chủ thể của tội phạm này.

Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động phương tiện giao thông đường không là người có chức vụ, quyền hạn và do có chức vụ, quyền hạn nên có quyền điều động phương tiện giao thông đường không hoặc tuy không có chức vụ, quyền hạn nhưng do tính chất nghề nghiệp nên có trách nhiệm trong việc điều động phương tiện giao thông đường không như: Thủ trưởng các đơn vị điều hành bay hoặc người có trách nhiệm được phân công điều hành bay…

Người chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng kỹ thuật là người có chức vụ, quyền hạn chịu trách nhiệm về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường không như:Thủ trưởng các đơn vị quản lý, chế tạo, sữa chữa, bảo dưỡng, kiểm định, sử dụng phương tiện giao thông đường không hoặc những người được ủy quyền, hoặc do nghề nghiệp mà có quyền cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn.

Cũng như đối với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, người  thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn là do vô ý, có thể vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.

Tuy nhiên, cũng như đối với tội đưa vào phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt hoặc đường thủy không đảm bảo an toàn, về nhận thức của người phạm tội trước khi thực hiện hành vi cho đưa vào phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn họ phải biết rõ là phương tiện đó không đảm bảo an toàn.Nếu vì lý do nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết thì cũng chưa cấu thành tội phạm. Đây là quy định về lý luận, có ý kiến cho rằng đối với tội phạm này người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, vì đã biết rõ là phương tiện không đảm bảo an toàn mà vẫn cho đưa vào sử dụng. Có thể nói người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn cho hậu quả xảy ra nên cũng không thỏa mãn các dấu hiệu về cố ý phạm tội.

Điều 279 BLHS năm 2015 quy định các khung hình phạt như sau:

– Khung 1. Đây là cấu thành cơ bản của tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn, có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

So với khoản 1 Điều 218 BLHS năm 1999 với khoản 1 Điều 279 BLHS năm 2015 không nhẹ hơn cũng không nặng hơn.

– Khung 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 279 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

So với khoản 2 của Điều 218 BLHS năm 1999  chỉ quy định trường hợp phạm tội, đó là: “Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”. Đến khoản 2 Điều 279 BLHS năm 2015 cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt cụ thể:

  1. Làm chết người;
  2. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  3. Gây thương tích hoặc hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
  4. Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

So với khoản 2 của Điều 218 BLHS năm 1999 với khoản 2 Điều 279 BLHS năm 2015 thì không nặng hơn cũng không nhẹ hơn.

– Khung 3. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 279 BLHS năm 2015 thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.

So với khoản 3 của Điều 218 BLHS năm 1999 chỉ quy định trường hợp phạm tội, đó là: “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”. Đến khoản 3 Điều 279 BLHS năm 2015 cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt cụ thể:

  1. Làm chết 02 người;
  2. Gây thương tích hoặc hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
  3. Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

So  khoản 3 của Điều 218 BLHS năm 1999 với khoản 3 Điều 279 BLHS năm 2015 thì không nặng hơn cũng không nhẹ hơn.

– Khung 4. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 279 BLHS năm 2015, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

So với khoản 4 của Điều 218 BLHS năm 1999 chỉ quy định trường hợp phạm tội, đó là: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Đến khoản 4 Điều 279 BLHS năm 2015 cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt cụ thể:

  1. Làm chết 03 người;
  2. Gây thương tích hoặc hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
  3. Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội: Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

Điều 279. Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn

1. Người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay rõ ràng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

 

Quang Thắng