Tìm hiểu nội dung về “Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi” tại Điều 366 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

5198
Đánh giá bài viết

Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi có nhiều dấu hiệu pháp lý giống với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, chỉ khác về chủ thể của tội phạm và thủ đoạn thực hiện hành vi trong mặt khách quan của tội phạm.

 

Ảnh minh họa.

 

Hành vi phạm tội xâm phạm đến uy tín, đến hoạt động đúng đắn của người có chức vụ quyền hạn, làm cho hoạt động của cơ quan, tổ chức bị ảnh hưởng.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ phạm tội là động cơ vụ lợi.
Chủ thể của tội phạm này ngoài hai dấu hiệu có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS còn phải là người có quan hệ và có ảnh hưởng nhất định đối với người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, ảnh hưởng đó không phải do chức vụ, quyền hạn mà do có quan hệ gia đình. (Ví dụ: người phạm tội là vợ hoặc chồng của người có chức vụ, quyền hạn) hoặc quan hệ xã hội khác. Đây chính là điểm quan trọng phân biệt tội phạm này với tội phạm quy định tại Điều 358 BLHS năm 2015.
Hành vi khách quan của tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi là hành vi nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất. Hành vi nhận lợi ích có thể được thực hiện trực tiếp hoặc qua trung gian. Thủ đoạn thực hiện hành vi nhận lợi ích nêu trên là thue đoạn lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn vì giữa người phạm tội và người có chức vụ, quyền hạn tồn tại mối quan hệ nhất định và nhờ đó người phạm tội có ảnh hưởng nhất định đến người có chức vụ, quyền hạn. Quan hệ này có thể là quan hệ gia đình, họ hàng, bạn bè hoặc quan hệ thân thiết khác.
Người phạm tội nhận những lợi ích trên để dùng ảnh hưởng của mình tác động tới việc thực hiện công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Cần chú ý là CTTP của tội này không đòi hỏi người nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác phải đã thực tế thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc có lợi cho người đưa tài sản.
Theo Điều 366 BLHS năm 2015, hành vi nhận lợi ích nêu trên cấu thành tội phạm khi lợi ích vật chất trị giá từ hai triệu đồng trở lên. Nếu lợi ích được nhận là lợi ích vật chất thì việc xác định trị giá là không bắt buộc.
Điều 366 BLHS năm 2015 quy định 3 khung hình phạt:
– Khung cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng trong trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết tăng nặng sau: Phạm tội 02 lần trở lên; Nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Tái phạm nguy hiểm.
– Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được áp dụng trong trường hợp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

 

Điều 366. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi

 1. Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

c) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

 

Quang Thắng